- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh cơ xương khớp
- Bệnh thoái khớp (hư khớp)
Bệnh thoái khớp (hư khớp)
Bệnh được đặc trựng bởi sự thoái hóa của sụn và phì đại xương tại các diện khớp. Biểu hiện viêm thường rất nhẹ. Những yếu tố di truyền và cơ học ít nhiều có liên quan đến có chế bệnh sinh của bệnh.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán
Tình trạng thoái hóa không kèm những dấu hiệu toàn thân.
Đau giảm khi nghi ngơi, cứng khớp buổi sáng nhẹ, biểu hiện viêm khớp là tối thiểu.
Dấu hiệu X quang: hẹp khe khớp, mọc gai xương, đặc xương dưới sụn, các hốc nhỏ đầu xương.
Thường thứ phát sau những bệnh lý khác.
Nhận định chung
Thoái khớp hay hư khớp là một bệnh lý thường gặp, xuất hiện ở mọi lứa tuổi, mọi chủng tộc và ở tất cả các vùng địa lí. Ở Mỹ có ít nhất 20 triệu người lớn mắc bệnh và đến tuổi 40 khoảng 90% dân số sẽ có những dấu hiệu của thoái khớp trên X quang ở những khớp chịu tải. Tỷ lệ mắc bệnh có triệu chứng cũng tăng lên theo tuổi.
Bệnh được đặc trựng bởi sự thoái hóa của sụn và phì đại xương tại các diện khớp. Biểu hiện viêm thường rất nhẹ. Những yếu tố di truyền và cơ học ít nhiều có liên quan đến có chế bệnh sinh của bệnh.
Bệnh thoái khớp (hư khớp) được chia làm 2 loại: (1) Thoái hóa tiên phát, chủ yếu xuất hiện ở khớp ngón xa (hạt Heberden) và sau đó là các khớp ngón gàn (hạt Bouchard), khớp bàn ngón và khớp ngón gần của ngón tay cái, khớp háng, khớp đầu gối, khớp bàn ngón chân cái, cột sống cổ và cột sống thắt lưng; và (2) thoái hóa thứ phát, xuất hiện ở bất kì khớp nào, hậu quả của tổn thương khớp do những nguyên nhân tại khớp (như viêm khớp dạng thấp) hay ngoài khớp. Những tổn thương này có thể là cấp tính, chẳng hạn gẫy xương, hoặc mạn tính do khớp phải làm việc quá sức, do một số bệnh rối loạn chuyển hóa (ví dụ cường cận giáp trạng, bệnh nhiễm sắc tố sắt, bệnh nhiễm sắc tố ochronose) hay những bệnh lý thần kinh (bệnh tabet).
Về mặt giải phẫu bệnh, ban đầu sụn khớp trở nên thô ráp, cuối cùng là mỏng đi và tạo nên các gai xương ở rìa của diện khớp. Màng hoạt dịch dầy lên, các hình lông phì đại. Mặc dù vậy khớp không bao giờ bị dính hoàn toàn và màng hoạt dịch không bị kết dính. Biểu hiện viêm rõ đôi khi có gặp ở một số bệnh nhân bị tổn thương cấp các khớp liên đốt ngón tay (hạt Heberden).
Triệu chứng cơ năng và thực thể
Bệnh khởi phát từ từ, ban đầu có dấu hiệu cứng khớp song hiếm khi kéo dài quá 15 phút. Sau đó xuất hiện đau khớp, tăng lên khi vận động kéo dài và giảm khi nghỉ ngơi. Biến dạng khớp thường không có hoặc rất nhẹ, tuy nhiên đôi khi thấy phì đại xương rõ. Tình trạng co gấp hoặc biến dạng khớp gối ít gặp. Bệnh không gây dính khớp song thường gây hạn chế vận động khớp, đôi khi người bệnh cảm thấy tiếng lạo xạo trong khớp. Tràn dịch khớp và những biểu hiện viêm khớp khác thường nhẹ. Không có triệu chứng toàn thân.
Xét nghiệm
Tốc độ lắng máu không tăng, các xét nghiệm viêm thường là bình thường.
Thăm dò hình ảnh
Trên X quang có biểu hiện hẹp khe khớp, các rìa của diện khớp thường nhọn, mọc gai ở đầu xương, đặc xương dưới sụn. Ngoài ra có thể thấy các hốc nhỏ ở đầu xương.
Chẩn đoán phân biệt
Bởi vì biểu hiện viêm khóp thường rất nhẹ và không có những triệu chứng toàn thân cho hên bệnh thoái khớp rất ít khi nhầm lẫn với bệnh viêm khớp khác. Vị trí tổn thương các khớp ở bàn tay giúp chúng ta phân biệt thoái khớp (hư khớp) và viêm khớp dạng thấp. Thoái khớp chủ yếu ảnh hưởng đến các khớp ngón xa và các ngón gần, ít gặp ở khớp cổ tay và khớp bàn ngón tay. Trong khi đó viêm khớp dạng thấp lại chủ yếu ảnh hưởng đến các khớp cổ tay và khớp bàn ngón tay, ít gặp ở các khớp ngón xa. Hơn nữa, trong thoái khớp, khớp to ra do phì đại của xương nên thường cứng và mát; trái lại khớp sưng trong viêm khớp dạng thấp thường mềm và nóng. Cũng cần phải thận trọng không nên cho rằng mọi triệu chứng ở xương khớp đều do khớp bị thoái hóa, đặc biệt đối với cột sống, bởi vì đi kèm với thoái khớp có thể có di căn ung thư, loãng xương, đa u tủy xương hoặc những bệnh khác.
Phòng bệnh
Giảm cân nặng ở phụ nữ có thể làm giảm nguy cơ mắc các triệu chứng của thoái hóa khớp gối.
Điều trị
Các biện pháp chung
Giáo dục, nghỉ ngơi, chế độ ăn, tập luyện và các liệu pháp vật lý là những vấn đề quan trọng. Chương trình đi bộ được sự hướng dẫn có thể giúp những bệnh nhân bị thoái hóa khớp gối cải thiện chức năng vận động mà không làm cho khớp bị đau thêm.
Các thuốc giảm đau và chống viêm
Với nhiều bệnh nhân dùng acetaminophen với liều 2,6 - 4g/ngày thương có hiệu quả và ít gây độc tính hơn so với những thuốc chống viêm giảm đau không steroid (CVKS) khác. Nếu dùng acetaminophen và những biện pháp không dùng thuốc mà không có tác dụng, có thể dùng salicylat hoặc một thuốc CVKS khác. Thường không cần thiết phải dùng salicylat liều cao như những bệnh khớp có viêm. Cần thăm khám định kì để quyết định có nên tiếp tục dùng thuốc cho bệnh nhân thoái khớp hay không. Đối với nhiều bệnh nhân, có thể giảm liều thuốc, thậm chí chỉ nên dùng trong những đợt tiến triển.
Các biện pháp chỉnh hình
Các phương pháp chỉnh hình có thể giải quyết một số bất thường phát sinh, biến dạng khớp, chân ngắn chân dài và khi diện khớp bị phá hủy nặng.
Ngoại khoa
Thay khớp háng toàn bộ là một phương pháp rất tốt để giảm các triệu chứng và cải thiện chức năng cho những khớp bị tổn thương nặng có hạn chế nhiều việc đi lại và đau cả lúc nghi ngơi đặc biệt là vào ban đêm. Thay khớp gối thường cũng rất có hiệu quả. Mặc dù phẫu thuật dưới nội soi trong điều trị thoái hóa khớp gối rất hay được làm song hiệu quả lâu dài của nó vẫn chưa được rõ ràng.
Tiên lượng
So với viêm khớp dạng thấp, thoái hóa thường ít khi gây mất khả năng vận động, song các triệu chứng có thể khá nặng nề và chức năng vận động có thể bị hạn chế đáng kể (đặc biệt trong trường hơp thoái hóa khớp háng, gối, cột sống cổ). Việc điều trị thích hợp có thể làm giảm các triệu chứng và cải thiện chức năng vận động.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh khớp do nguyên nhân thần kinh: bệnh charcot
Khi trương lực cơ bình thường và những phản xạ bảo vệ bị mất, bệnh khớp thoái hóa thứ phát đã xuất hiện, làm cho khớp trở nên yếu, to ra.
Loạn dưỡng giao cảm phản xạ
Tiên lượng phụ thuộc một phần vào giai đoạn bệnh, những tổn thương đã xuất hiện và phụ thuộc vào mức độ nặng của bệnh lý nội tạng phôi hợp. Điều trị sớm, khả năng hồi phục sẽ tôt hơn.
Đánh giá và chẩn đoán bệnh cơ xương khớp
Làm các thăm dò xét nghiệm để hoàn thiện việc đánh giá. Những xét nghiệm thông thường gồm tốc độ lắng máu, phản ứng tìm yếu tố dạng thấp, kháng thể kháng nhân
Cốt tủy viêm cấp do vi khuẩn sinh mủ
Trong số những bệnh nhân bị các bệnh huyết sắc tố, cốt tủy viêm do vi khuẩn thương hàn thường gặp gấp 10 lần so với những vi khuẩn sinh mủ khác.
Hội chứng Behort
Triệu chứng lâm sàng gồm liệt dây thần kinh sọ, co giật, viêm não, rối loạn tâm thần và tổn thương tủy sống. Thường có tăng bạch cầu và tăng tốc độ lắng máu.
Bệnh u hạt Wegener
Mặc dù có thể có dạng u hạt Wegener giới hạn mà trong đó không có tổn thương thận, song thông thường sẽ xuất hiện bệnh thận tiến triển nặng và gây suy thận nhanh chóng.
Viêm khớp do lậu
Trong hầu hết các trường hợp, nghi ngờ bệnh nhân bị viêm khớp do lậu nên nhập viện để khẳng định chẩn đoán, để loại trừ viêm nội tâm mạc và bắt đầu điều trị.
Bệnh hỗn hợp của mô liên kết
Bệnh ít gặp, bệnh nhân có các triệu chứng của nhiều bệnh thấp khác nhau. Người ta quan tâm nhiều đến những bệnh nhân có các biểu hiện chồng chéo của LBH, xơ cứng bì và viêm đa cơ.
Viêm gân lắng đọng Calci vùng vai cánh tay
Viêm gán lắng đọng calci cần phải phân biệt với những hội chứng đau cổ cánh tay khác, viêm khớp mủ, thoái khớp, gút, các khối u đỉnh phổi Pancoast và đứt bao xoay.
Viêm nút đa động mạch
Viêm đa động mạch đặc trưng bởi tổn thương cục bộ hoặc từng đoạn của các mạch máu, đặc biệt là các động mạch nhỏ và trung bình, gây ra những biểu hiện lâm sàng khác nhau.
Lao xương khớp
Hầu hết những nhiễm khuẩn do lao ở Mỹ do vi khuẩn lao người Mycobacterium tuberciilosis gây ra, Nhiễm khuẩn hệ thống xương khớp do sự lan tràn trên đường máu.
Bệnh calci hóa sụn và giả gút
Không giống bệnh gút, bệnh nhân bị bệnh giả gút thường có nồng độ acid uric huyết thanh bình thường, và kém đáp ứng với điều trị bằng colchicin
Viêm lồi cầu
Dùng một băng chun quân phía trên cẳng tay có thể làm cho bệnh nhân dễ chịu hơn mỗi khi bệnh nhân phải mang xách nặng.
Hoại tử xương vô khuẩn
Ban đầu, X quang thường bình thường; chụp cộng hưởng tứ, cắt lớp vi tính và đồng vị phóng xạ là những kĩ thuật thăm dò nhậy hơn.
Bệnh co thắt Dupuytren
Co thắt Dupuytren có biểu hiện bằng sự dầy lên của bao cân gan tay dạng nốt hoặc giống như dây thừng ờ một hoặc hai bàn tay và thường ảnh hưởng tới các ngón thứ tư và thứ năm.
Viêm khớp dạng thấp
Viêm khớp dạng thấp là bệnh toàn thân có viêm mạn tính màng hoạt dịch của nhiều khâp, mà nguyên nhân chưa rõ, Bệnh có bệnh cảnh lâm sàng phong phú.
Bệnh viêm mô sợi
Bệnh viêm mô sợi có thể là một biến chứng của bệnh thiểu năng giáp trạng, viêm khớp dạng thấp, hoặc ở nam giới là do khó ngủ.
Những biểu hiện khớp trong nhiễm HIV
Viêm gân Achille hoặc viêm quanh khớp gối, như trong hội chứng Reiter cổ điển, là những dấu hiệu thường nổi bật và rất đặc trưng.
Viêm khớp mãn tính thiếu niên
Các bất thường về sự phát triển của có thể và sự phát triển của bộ xương liên qiian đến sự tiến triển cấp tính của bệnh, có thể chỉ là tạm thời và thường hồi phục.
Luput ban đỏ hệ thống
Luput ban đỏ hệ thống không phải là một bệnh hiếm gặp, Những số liệu điều tra tại một quần thể dân thành thị với độ đại diện cao cho thấy tỷ lệ mắc bệnh trên 1/2000 dân.
Viêm khớp vảy nến
Bệnh khớp giống viêm khớp dạng thấp, viêm đa khớp đối xứng. Thông thường tổn thương ít khớp hơn so với viêm khớp dạng thấp và yếu tố dạng thấp trong huyết thanh âm tính.
Viêm khớp và các bệnh viêm ruột
Trên thực tế, viêm khớp ổn định thì ỉa chảy xuất hiện. Do vậy, bệnh Whiple nên được xem xét trong chẩn đoán phân biệt những trường hợp viêm khớp từng đợt không lý giải được.
Đau thắt lưng
Thăm khám thực thể cũng rất quan trọng, bởi vì những triệu chứng như sốt, tăng huyết áp, hạch to, có khối u ở bụng, ở khung chậu hay ở trực tràng
Viêm nhiều sụn tái phát
Bệnh thường tiến triển từng đợt, tỷ lệ nam nữ bị bệnh ngang nhau. Sụn sưng, đau trong đợt cấp và hậu quả là trở nên teo nhỏ, gây biến dạng vĩnh viễn. Sinh thiết sụn tổn thương thấy viêm và tiêu sụn.
Viêm quanh khớp vai
Khởi phát của đau, tăng lên khi vận động khớp vai quá mức, có thể cấp tính hoặc từ từ. Đau có thể khó chịu nhất vào ban đêm và tăng lên khi nằm ngủ đè lên tay bị bệnh ở tư thế nằm nghiêng.