- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh tai mũi họng
- Viêm họng và viêm amidan
Viêm họng và viêm amidan
Những căn nguyên phổ biến khác ngoài nhóm liên cầu β tan huyết nhóm A cần chuẩn đoán phân biệt đau họng do virus, Neisseria gonorrhoeae, Mycoplasma và Chlamydia Trachomatis.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Viêm họng và viêm amidan cũng hay gặp như các nhiễm khuẩn đường hô hấp khác, nó chiếm hợn 10% số trường hợp các bệnh nhận tới khám ở bác sĩ cơ sở và chiếm tới 50% số bệnh nhân ngoại trú phải dùng kháng sinh, Vấn đề cần đề cập tới ở đây là làm sao phải đạt được sự thống nhất về quan điểm giữa các bác sĩ lâm sàng. Tuy vậy vẫn còn nhầm lẫn phức tạp. Còn tranh cãi về nhiều mặt như khi nào thì tiến hành điều trị một nhiễm khuẩn họng và điều trị trong bao lâu đối với các nhiễm khuẩn họng gây bởi liên cầu nhóm A tan huyết β và dùng gì trong điều trị các nhiểm khuẩn này.
Đã có nhiều nghiên cứu đạt kết quả tốt trong vài năm gần đây của các thử nghiệm cận lâm sàng nhanh chóng để phát hiện liên cầu (loại trừ được sự chậm trễ do nuôi cấy) làm cho có thể điều trị thích hợp được. Những dấu hiệu lâm sàng đặc trưng cho một trường hợp viêm họng gây ra bởi liên cầu tan huyết nhóm A gồm sốt, sưng các hạch vùng trước cổ, có dịch rỉ từ họng và amidan. Ngoài ra, đau họng (có thể có với dấu hiệu nuốt đau, sưng hạch và các ban tinh hồng nhiệt. Có sự tăng lên về số lượng bạch cầu và công thức bạch cầu chuyển sang trái cũng thấy trong viêm họng do liên cầu nhóm A tan huyết β.
Nói khàn, ho, sổ mũi không phải là những triệu chứng gợi ý để nghĩ tới bệnh này. Lưu ý bệnh lý hạch bạch huyết, lốm đốm các nốt xuất tiết trắng hay đỏ trên amidan, có khi lan cả tới vùng họng hầu, gợi ý tới bệnh bạch cầu đơn nhân, đặc biệt là ở người trẻ tuổi. Chứng to gan lách và test ngưng kết bạch cầu trung tính dương tính hoặc sự tăng lên của kháng thể EBV so với độ chuẩn dĩ nhiên là bằng chứng xác thực. Cũng cần phải nhớ rằng có tới 1/3 số bệnh nhân nhiễm khuẩn bạch cầu đơn nhân có nhiễm khuẩn amidan thứ phát do liên cầu và cần phải điều trị (trong điều trị các trường hợp nghi ngờ gây ra bởi bệnh bạch cầu đơn nhân phải tránh sử dụng ampixilin vì cổ thể làm xuất hiện các ban đỏ trên những bệnh nhân đó). Bệnh bạch hầu tuy hiện nay thực sự hiếm, nhưng cũng đã được mô tả ở những người nghiện rượu, thường có các triệu chứng như mệt mỏi, kèm theo sốt nhẹ, trên amidan có giả mạc màu xám. Bệnh nhân cần được phân biệt với những bệnh cấp tính thường gặp hơn như loét hoại tử lợi, viêm họng có mụn nước.
Những căn nguyên phổ biến khác ngoài nhóm liên cầu β tan huyết nhóm A cần chuẩn đoán phân biệt đau họng do virus, Neisseria gonorrhoeae, Mycoplasma và Chlamydia Trachomatis. Sổ mũi có thể nghĩ tới do virus nếu bệnh nhân không có các dấu hiệu xuất tiết. Tuy nhiên trên thực tế không thể phân biệt được một nhiễm khuẩn đường hô hấp trên do virus đơn thuần hay có bội nhiễm thêm liên cầu nhóm A tan huyết β chỉ dựa đơn thuần vào lâm sàng. Các nhiễm khuẩn với vi khuẩn bạch hầu, liên cầu yếu khí, vi khuẩn tan huyết đáp ứng điều trị với erythromycin khá hơn so với penicilin và cũng có biểu hiện giống như viêm họng gây bởi liên cầu khuẩn β tan huyết nhóm A.
Chiến lược điều trị ngày nay cho các trường hợp đau họng có thay đổi có thể là "điều trị cho tất cả người đến khám" cho đến chỉ định điều trị cho những trường hợp có kết quả nuôi cấy dương tính. Các yếu tố ảnh hưởng tới quyết định ở mỗi cá thể bao gồm độ tin cậy của kết quả nuôi cấy, các test nhanh xác định sự có mặt của liên cầu như test kết dính kháng thể (LA) và thử nghiệm miễn dịch huỳnh quang gắn men (ELISA), tỷ lệ mới mắc viêm họng nhưng không phải do liên cầu β tan huyết nhóm A và cuối cùng là sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân, giá thành điều trị. Rõ ràng lợi điểm của phường pháp điêu trị cho tất cả (treat all) này rút ngắn được giai đoạn điều trị, tiết kiệm chi phí nhờ bỏ bớt được những test chuẩn đoán và ngăn ngừa được những tình trạng nhiễm khuẩn liên cầu phức tạp. Nhưng bên cạnh đó sự tiếp cận cần thiết là nguyên do gây tỷ lệ cao nhất của phản ứng với penicilin với tổng chi phí cho việc điều trị vô cùng tốn kém. Một mặt vướng mắc của phương pháp cấy cho tất cả này là liên quan tới tuy phản ứng penicilin ít nhất nhưng lại đắt hơn nhiều so với test kháng thể và nuôi cấy. Mặt khác nó cũng phụ thuộc vào việc theo dõi điều trị một cách cẩn thận không có được ở các phòng khám lâm sàng tại các thành phố lớn.
Với độ nhậy hiện nay của test LA trong khoảng 55 - 75% chiến lược điều trị bệnh nhân có test kháng thể dương tính trong khi nuôi cấy và chờ đợi kết quả nuôi cấy thì những bệnh nhân có kết quả nuôi cấy âm tính hình như là có lợi nhất. Nếu độ nhậy của các test LA, ELISA mới đây hoặc các thử nghiệm miễn dịch khác (như test miễn dịch huỳnh quang để phát hiện kháng thể kháng liên cầu khuẩn nhóm A được báo cáo là có độ nhậy cảm tới 97%) vượt trên 90% thì chiến lược thứ tư dựa trên sự không đồng bộ của các test kháng thể để quyết định khi nào điều trị trở nên có hiệu quả hơn sẽ là chiến lược hấp dẫn hơn. Việc quyết định ở mỗi cá thể cần phải dựa trên sự thịnh hành của nhiễm liên cầu khuẩn, (mùa; địa phương), tiền sử dị ứng của bệnh nhân, tính khả thi và sự tuân thủ điều trị, độ tin cậy của các test LA, tính khả thi và độ tin cậy của các phòng xét nghiệm vi khuẩn.
Trong 3 năm gần đây việc dùng đường tiêm đơn độc benzathin penicilin hoặc procain penicilin đã là phương pháp điều trị kháng sinh chuẩn. Penicilin vẫn duy trì được vị trí của mình mặc dầu tiêm rất đau. Tuy nhiên, điều trị bằng đường uống cũng có kết quả. Việc chọn lựa thuyết điều trị liên quan với sự giảm thấp tỷ lệ bị kháng điều trị vốn đã thấp chỉ 10 - 20% (kết quả nuôi cấy (+) sau điều trị dù các triệu chứng được giải quyết) và tỷ lệ tái phát còn đang là vấn đề gây tranh cãi. Điểm lại những nghiên cứu mới đây thấy penicilin postassium (250mg uống 3 lần/ngày chứ không phải chỉ uống 1 hoặc 2 lần trong 10 ngày) hoặc Cefuroxim axetil (25Qmg uống 2 lần/ngày trong 10 ngày) đều có hiệu quả. Một đợt điều trị đầy đủ kéo dài 10 ngày (không ít hơn) là cần thiết. Erythromycin (tác dụng trên mycoplasma và chlamylia) có thể dùng để thay penicilin.
Thường cephalosporin với liều điều trị thông thường cũng có hiệu quả. Azithromycin (500mg một lần trong 3 ngày) đã được báo cáo là có hiệu quả tương đương và vì thuốc có thời gian bán hủy dài nên chỉ cần dùng trong 3 ngày.
Một lựa chọn kháng sinh đúng thường tránh được các biến chứng của nhiễm khuẩn liên cầu như sốt tinh hòng nhiệt, viêm cầu thận, bệnh viêm cơ tim do thấp khớp và hình thành các áp xe tại chỗ. Khoảng 10% trường hợp cấy lại vẫn thấy có sự tồn tại dai dẳng của liên cấu khuẩn nhóm A.
Lựa chọn kháng sinh trong những trường hợp điều trị thất bại vẫn là một vấn đề đang còn phải bàn cãi. Có lẽ ngạc nhiên đơn thuần là những chủng kháng penicilin phân lập được, ở những người đã điều trị thất bại thấy không nhiều hơn so với phân lập được từ các trường hợp điều trị có kết quả với penicilin.
Những lý do điều trị thất bại là phức tạp và một đợt điều trị thứ hai với cùng một loại thuốc vẫn có thể là cần thiết. Những thuốc thay thế cho penicilin bao gồm cefuroxim và một số khác của nhóm cefalosporin như dicloxacillin (loại này kháng men β lactamase) và amoxicillin với clavulanat. Những bệnh nhân dị ứng penicilin thường dùng các kháng sinh khác để thay thế như erythromycin hoặc cephalosporin. Khi trong tiền sử có khả năng có dị ứng với penicilin thường cần phải thay thuốc. Những trường hợp có dị ứng nặng với penicilin thì ngay cả cepalosporin cũng cần tránh vì phản ứng chéo gặp cao hơn so với tỉ lệ chung 8%.
Việc điều trị viêm họng bao gồm cho các thuốc giảm đaụ và chống viêm hiệu quả như aspirin hoặc acetạminophen. Một số bệnh nhân thấy súc miệng bằng nước muối cũng có tác dụng làm dịu. Trong một vài trường hợp nặng, súc miệng và ngậm thuốc tê (ví dụ benzocain) có thể làm đỡ nhiều triệu chứng. Trường hợp triệu chứng nuốt đau rất rõ rệt, có thể phải xem xét cho nhập viện để truyền dịch và kháng sinh.
Bài viết cùng chuyên mục
Tổn thương loét trong miệng
Viêm lợi miệng do herpes là thường gặp, bệnh nhẹ, diễn biến trong thời gian ngắn và không cần can thiệp gì ở hầu hết bệnh nhân là người lớn.
Chảy máu mũi
Hầu hết các trường hợp chảy máu mũi trước có thể cầm bằng ép trực tiếp vào điểm chảy máu. Cánh mũi phải được ép chặt ít nhất 10 phút.
Viêm tiền đình do mũi
Điều trị đầy đủ nhiễm khuẩn rất quan trọng để ngăn chặn nhiễm khuẩn ngược dòng qua đường tĩnh mạch vào xoang tĩnh mach hang và vào nôi sọ.
U tuyến nước bọt
Hầu hết u của tuyến mang tai thể hiện như một khối không có triệu chứng ở phần ngoài của tuyến. Khối u có thể được bệnh nhân nhận thấy trong nhiều tháng hoặc nhiều năm.
Bệnh lý vòi nhĩ: vòi eustachi
Trường hợp mở vòi nhĩ quá mức hiếm gặp và khó điều trị. Bệnh nhân thường phàn nàn là cảm giác đầy trong tai và tự thính, bệnh nhân nghe thấy mình thở hoặc nói.
Bệnh nấm mucor mũi nội sọ
Triệu chứng khởi đầu có thể giống như viêm xoang nhiễm khuẩn, mặc dầu triệu chứng đau mặt thường dữ dội hơn. Khám niêm mạc mũi cố vẻ biểu hiện màu đen, và hoại tử chính ở cuốn dưới.
Các nhiễm khuẩn vùng cổ sâu
Nền tảng của điều trị bao gồm bảo đảm thông suốt đường thở, tiêm truyền kháng sinh và chích rạch dẫn lưu đường thở có thể được bảo đảm bằng phương pháp đặt nội khí quản hoặc mở khí quản.
Biểu hiện của nhiễm HIV tai mũi họng
Sự tăng lên của u carcinom tế bào vẩy cũng thấy ở nhóm người đồng tính luyến ái, có lẽ cũng liên quan đến nhiễm HIV.
Bệnh lý tai giữa
Các loại vi khuẩn hay gặp ở cả người lớn và trẻ em là Streptococcus Pneumonia, Hemophilus Influenzae và S. pyogenes.
Viêm cấp và mạn tuyến nước bọt do loạn sản
Sinh bệnh học là sự tắc nghẽn các ống tuyến thường gây ra bởi sự cô đặc dịch nhầy gây bít tắc, tiếp theo sau là ứ nước bọt và nhiễm khuẩn thứ phát.
Nghe kém tiếp nhận: bệnh lý tai trong
Những chất gây nhiễm độc tai có thể tác dụng lên cả hệ thính giác và tiền đình. Những thuốc gây nhiễm độc tai hay gặp nhất là salycylat, aminoglycosid, thuốc lợi tiểu.
Các khối u ác tính vùng mũi họng và xoang
Ung thư biểu mô lát hay gặp nhất ở vùng giải phẫu này, đặc biệt hay gặp ở vùng mũi họng, ở đây nó thường hay gây tắc vòi nhĩ và viêm tai tiết dịch.
Rối loạn chức năng khứu giác
Mất, giảm, biến dạng mùi hoặc vị giác được thông báo ở những bệnh nhân có rối loạn nội tiết, dinh dưỡng và thần kinh.
Mở khí quản và mở màng nhẫn giáp
Chăm sóc sau mở khí quản là cần làm ẩm không khí đề phòng tạọ vảy bít tắc ống đặt khí quản, ống trong phải được rửa sạch vài lần trong ngày.
Bệnh nấm candida
Chẩn đoán thường không khó, những mảng trắng trong miệng gây đau trên nền xung huyết ở những bệnh nhân có nguy cơ nhiễm nấm candida.
Viêm mũi do virus: cảm cúm
Thuốc xịt mũi như oxymetazolin hoặc phenylephrin có tác dụng nhanh chóng, không nên dùng các thuốc này kéo dài vì sẽ gây nên xung huyết trở lại mà thường là nặng hơn lúc đầu.
Viêm mũi dị ứng
Dùng steroid trong viêm mũi có vai trò với dị ứng theo mùa, có polip mũi, thường làm giảm các chỉ định phẫu thuật.
Chóng mặt do bệnh lý tai trong
Khám thực thể tối thiểu cho bệnh nhân chóng mặt gồm test Romberg, đánh giá dáng đi, quan sát có rung giật nhãn cầu hay không.
Bệnh lý ống tai
Dị vật ống tai thường gặp ở trẻ em hơn ở người lớn. Những chất rắn có thể được lấy bằng vòng hoặc móc ráy, cần cẩn thận để tránh đẩy dị vật vào trong.
Nghe kém: chẩn đoán và điều trị
Nghe kém tiếp nhận là kết quả hư hại của ốc tai, thường do mất các tế bào lông của cơ quan Corti.
Các bệnh của hệ thống thính giác và tiền đình trung ương
Chóng mặt do tổn thương trung ương có xu hướng thành mạn tính và nhẹ hơn là chóng mặt gặp trong các bệnh mê nhĩ.
Bạch sản, hồng sản và ung thư miệng
Bất cứ là hồng sản hoặc bạch sản lan rộng, các bác sĩ đều nên rạch sinh thiết hoặc làm tế bào tróc vì cần phải điều trị cho bệnh nhân.
Viêm xoang cấp
Viêm xoang xảy ra khi không dẫn lưu được mủ ứ đọng trong xoang. Các bệnh làm phù nề niêm mạc như viêm mũi do virus, viêm mũi dị ứng là những nguyên nhân thường gặp.
Dị vật khí phế quản, thực quản
Dị vật khí phế quản nên được lấy ra dưới gây mê toàn thân tiến hành bởi người có kinh nghiệm đặt ống nội khí quản phối hợp với người gây mê có kinh nghiệm.
U thanh quản
Việc điều trị đòi hỏi thay đổi thói quen về nói và được coi là phương pháp điều trị giọng nói. Với các hạt không hồi phục có thể đòi hỏi phải phẫu thuật lấy bỏ.