Nghe kém tiếp nhận: bệnh lý tai trong

2016-08-31 11:49 AM

Những chất gây nhiễm độc tai có thể tác dụng lên cả hệ thính giác và tiền đình. Những thuốc gây nhiễm độc tai hay gặp nhất là salycylat, aminoglycosid, thuốc lợi tiểu.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Bệnh ở ốc tai gây nên điếc tiếp nhận, thường không phục hồi được. Phần lớn bệnh ốc tai gây nghe kém tiếp nhận hai bên như nhau. Khi có nghe kém tiếp nhận một bên hoặc mất cân đối nên nghĩ tới bệnh ở sau ốc tai. Bệnh ở dây VIII và hệ thần kinh thính giác trung ương đã được nói tới ở phần nghe kém do thần kinh. Những thành công bước đầu trong việc điều trị điếc tiếp nhận là ngăn chặn bệnh nặng lên và cải thiện chức năng bằng máy tăng âm và phục hồi thính giác.

Giảm thính lực tuổi già

Điếc tuổi già tăng dần, nghe giảm chủ yếu ở tần số cao, cân đối hai bên và tăng dần theo tuổi. Rất khó để tách biệt các yếu tố sinh bệnh khác nhau (như chấn thương âm) có thể gây điếc tuổi già, nhưng di truyền đóng vai trò quan trọng. Phần lớn các bệnh nhân đều thấy mất sự phân biệt lời nói đặc biệt trong môi trường ồn ào. Khoảng 25% số người 65 - 75 tuổi và 50% số người trên 75 tuổi có khó khăn khi nghe.

Chấn thương âm là nguyên nhân hay gặp thứ hai (sau điếc tuổi già) của điếc tiếp nhận. Những âm thanh cao hơn 85 dB có nguy cơ làm tổn thương ốc tai đặc biệt khi phải tiếp xúc lâu dài. Điển hình thì sức nghe bắt đầu mất ở tần số cao (đặc biệt ở 4000 Hz) và quá trình này sẽ ảnh hưởng tới các tần số tiếng nói khi tiếp xúc với tiếng ồn kéo dài. Trong những nguồn gây chấn thương âm thường gặp là máy công nghiệp, vũ khí, âm nhạc quá to. Trong những năm gần đây việc theo dõi tiếng ồn ở nơi làm việc của các cơ quan hình thành nên các chương trình dự phòng làm giảm tần suất bị điếc nghề nghiệp. Mọi người ở mọi lứa tuổi, đặc biệt ở những người đã có nghe kém nên đeo nút tai khi tiếp xúc với tiếng ồn trung bình và những bao tai được chế tạo đặc biệt khi tiếp xúc với tiếng nổ như súng bắn.

Chấn thương thực thể

Chấn thương vùng đầu tác dụng lên tai trong giống như những chấn thương thính giác nặng. Giảm nghe có thể xuất hiện sau các đụng giập đơn thuần và nhất là sau chấn thương xương sọ.

Nhiệm độc tai

Những chất gây nhiễm độc tai có thể tác dụng lên cả hệ thính giác và tiền đình. Những thuốc gây nhiễm độc tai hay gặp nhất là salycylat, aminoglycosid, thuốc lợi tiểu, nhiều loại thuốc chống ung thư, đáng chú ý là cisplatin. Ba nhóm sau có thể gây nên nghe kém không hồi phục thậm chí chỉ với liều điều trị. Khi dùng những loại thuốc này, điều quan trọng là phải xác định được những bệnh nhân có nguy cơ cao như có nghe kém từ trước hoặc giảm chức năng thận. Những bệnh nhân dùng nhiều chất gây nhiễm độc tai cùng lúc có nguy cơ bị nhiễm độc hợp lực. Những phương pháp có tác dụng làm giảm nguy cơ nhiễm độc tai là đo thính lực hàng loạt, phát hiện với dung dịch đỉnh, và thay thế nếu có thể được bằng thuốc không độc tương ứng.

Điếc tiếp nhận đột ngột

Điếc đột ngột ở một tai có thể xảy ra ở bất kỳ lứa tuổi nào, nhưng thường gặp ở tuổi già. Điếc đột ngột hay gặp nhất là do tắc mạch đột ngột của động mạch tai trong hoặc nhiễm virus tai trong, vì tiên lượng có những bệnh nhân điếc không hồi phục, trong khi đó có những bệnh nhân lại hồi phục hoàn toàn. Tuy còn nhiều tranh cãi nhưng việc dùng corticosteroid đã làm tăng sự hồi phục. Thường dùng prednisolon 80 mg/24giờ sau đó giảm liều trong 10 ngày.

Các ngụyên nhân khác gậy điếc tiếp nhận

Có rất nhiều nguyên nhân ít gặp khác gây điếc tiếp nhận. Bệnh rối loạh chuyển hóa (đái tháo đường, suy tuyến giáp, tăng lipid máu, suy thận), bệnh nhiễm khuẩn (sởi, quai bị, giang mai), bệnh tự miễn (viêm khớp, luput ban đỏ), yếu tố lý học (điều trị tia xạ) và những hội chứng di truyền là những ví dụ chính. Việc xác định điếc tiếp nhận do chuyển hóa, nhiễm khuẩn, hoặc bệnh tự miễn đặc biệt quạn trọng, đôi khi bệnh có thể phục hồi bằng điều trị nội khoa. Hội chứng Meniere và viêm mê nhĩ sẽ được thảo luận ở phần rối loạn tiền đình.

Bài viết cùng chuyên mục

Viêm tiền đình do mũi

Điều trị đầy đủ nhiễm khuẩn rất quan trọng để ngăn chặn nhiễm khuẩn ngược dòng qua đường tĩnh mạch vào xoang tĩnh mach hang và vào nôi sọ.

Chóng mặt do bệnh lý tai trong

Khám thực thể tối thiểu cho bệnh nhân chóng mặt gồm test Romberg, đánh giá dáng đi, quan sát có rung giật nhãn cầu hay không.

Bệnh lý vành tai

Cũng tương tự, những trường hợp bị viêm mô tế bào vành tai phải được điều trị ngay đề phòng sự tiến triển tới viêm màng sụn và các hậu quả biến dạng của nó.

Viêm mũi do virus: cảm cúm

Thuốc xịt mũi như oxymetazolin hoặc phenylephrin có tác dụng nhanh chóng, không nên dùng các thuốc này kéo dài vì sẽ gây nên xung huyết trở lại mà thường là nặng hơn lúc đầu.

Khàn tiếng và thở rít: bệnh lý thanh quản

Giọng thô ráp khi sự xáo động tạo nên do sự bất thường của dây thanh âm như viêm thanh quản hoặc khối u dây thanh âm.

U tuyến nước bọt

Hầu hết u của tuyến mang tai thể hiện như một khối không có triệu chứng ở phần ngoài của tuyến. Khối u có thể được bệnh nhân nhận thấy trong nhiều tháng hoặc nhiều năm.

Bạch sản, hồng sản và ung thư miệng

Bất cứ là hồng sản hoặc bạch sản lan rộng, các bác sĩ đều nên rạch sinh thiết hoặc làm tế bào tróc vì cần phải điều trị cho bệnh nhân.

Viêm họng và viêm amidan

Những căn nguyên phổ biến khác ngoài nhóm liên cầu β tan huyết nhóm A cần chuẩn đoán phân biệt đau họng do virus, Neisseria gonorrhoeae, Mycoplasma và Chlamydia Trachomatis.

Các rối loạn thanh quản hay gặp

Nếu người lớn bị viêm thanh thiệt được phát hiện sớm có thể tránh được đặt ống nội khí quản, trong những trường hợp này theo dõi nồng độ bão hòa oxy huyết cầu tố bằng máy đo oxy.

Rối loạn chức năng khứu giác

Mất, giảm, biến dạng mùi hoặc vị giác được thông báo ở những bệnh nhân có rối loạn nội tiết, dinh dưỡng và thần kinh.

Viêm cấp và mạn tuyến nước bọt do loạn sản

Sinh bệnh học là sự tắc nghẽn các ống tuyến thường gây ra bởi sự cô đặc dịch nhầy gây bít tắc, tiếp theo sau là ứ nước bọt và nhiễm khuẩn thứ phát.

Bệnh lý ống tai

Dị vật ống tai thường gặp ở trẻ em hơn ở người lớn. Những chất rắn có thể được lấy bằng vòng hoặc móc ráy, cần cẩn thận để tránh đẩy dị vật vào trong.

Viêm mũi dị ứng

Dùng steroid trong viêm mũi có vai trò với dị ứng theo mùa, có polip mũi, thường làm giảm các chỉ định phẫu thuật.

Tổn thương loét trong miệng

Viêm lợi miệng do herpes là thường gặp, bệnh nhẹ, diễn biến trong thời gian ngắn và không cần can thiệp gì ở hầu hết bệnh nhân là người lớn.

Dị vật khí phế quản, thực quản

Dị vật khí phế quản nên được lấy ra dưới gây mê toàn thân tiến hành bởi người có kinh nghiệm đặt ống nội khí quản phối hợp với người gây mê có kinh nghiệm.

U thanh quản

Việc điều trị đòi hỏi thay đổi thói quen về nói và được coi là phương pháp điều trị giọng nói. Với các hạt không hồi phục có thể đòi hỏi phải phẫu thuật lấy bỏ.

Đau tai: chẩn đoán và điều trị

Đau tai dữ dội mà không tương ứng với phát hiện thực thể có thể do virus zona ở tai, đặc biệt khi có những phổng nước ở ống tai hoặc hố thuyền.

Viêm lưỡi và đau lưỡi

Đôi khi không tìm được nguyên nhân gây đau lưỡi. Bệnh quanh răng không phải là yếu tố gây đau lưỡi.

Nghe kém: chẩn đoán và điều trị

Nghe kém tiếp nhận là kết quả hư hại của ốc tai, thường do mất các tế bào lông của cơ quan Corti.

Áp xe quanh amidan và viêm mô tế bào

Trong một vài trường hợp có đề nghị chấp nhận cắt amidan ngay cùng với dẫn lưu áp xe và tránh sự tái phát. Cả hai cách đều hợp lý và được ủng hộ trong y văn.

Chảy máu mũi

Hầu hết các trường hợp chảy máu mũi trước có thể cầm bằng ép trực tiếp vào điểm chảy máu. Cánh mũi phải được ép chặt ít nhất 10 phút.

Các bệnh của hệ thống thính giác và tiền đình trung ương

Chóng mặt do tổn thương trung ương có xu hướng thành mạn tính và nhẹ hơn là chóng mặt gặp trong các bệnh mê nhĩ.

Các khối u ác tính vùng mũi họng và xoang

Ung thư biểu mô lát hay gặp nhất ở vùng giải phẫu này, đặc biệt hay gặp ở vùng mũi họng, ở đây nó thường hay gây tắc vòi nhĩ và viêm tai tiết dịch.

Cắt amidan

Hiện nay thấy rõ ràng là các bệnh nhân phẫu thuật cắt amidan ngoại trú thường an an toàn nếu theo dõi trong thời gian 6 giờ mà không có biến có gì.

Các khối u lành tính trong mũi

Ù nhú đảo ngược là u lành tính thường xuất phát ở thành bên của mũi, biểu hiện bằng tắc mũi một bên, đôi khi chảy máu.