- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh tai mũi họng
- Nghe kém: chẩn đoán và điều trị
Nghe kém: chẩn đoán và điều trị
Nghe kém tiếp nhận là kết quả hư hại của ốc tai, thường do mất các tế bào lông của cơ quan Corti.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Phận loại
Nghe kém dẫn truyền
Do rối loạn chức năng của tai ngoài hoặc tai giữa. Có 4 cơ chế, mỗi loại làm tổn thương từng phần sự dẫn truyền âm thanh vào tai trong.
Tắc nghẽn (thí dụ, nút ráy).
Khối choán chỗ (thí dụ, dịch trong tai giữa).
Xơ cứng (thí dụ, xốp xơ tai).
Mất liên tục (thí dụ, gián đoạn xương con).
Nghe kém dẫn truyền thường có thể điều trị được bằng nội khoa, bằng ngoại khoa hoặc bằng cả hai.
Nghe kém tiếp nhận
Nghe kém tiếp nhận là kết quả hư hại của ốc tai, thường do mất các tế bào lông của cơ quan Corti. Các nguyên nhân thường gặp là chấn thương âm, nhiễm độc tai, tuổi già nghe kém. Nghe kém tiếp nhận không điều trị được bằng nội khoa hoặc ngoại khoa nhưng cố thể ngăn chặn hoặc làm cho ổn định (không tiến triển thêm).
Nghe kém do thần kinh
Nghe kém do thần kinh xảy ra với những tổn thương của dây VIII, nhân thính giác, đường dẫn truyền lên vỏ não, vùng thính giác của vỏ não. Đây là những nguyên nhân ít gặp nhất trên lâm sàng của nghe kém. Bao gồm u dây thần kinh thính giác, bệnh xơ cứng rải rác và bệnh lý mạch máu não.
Dịch tễ học
Nghe kém dẫn truyền ở người lớn hay gặp nhất là do nút ráy hoặc do mất chức năng tạm thời của vòi nhĩ kết hợp với nhiễm khuẩn đường hô hấp trên. Nghe kém dẫn truyền kéo dài thường do nhiễm khuẩn mạn, chấn thương, xốp xơ tai.
Nghe kém tiếp nhận ở người lớn là thường gặp, tiến triển dần dần, sức nghe mất nhiều ở tần số cao, tăng dần theo tuổi. Với trường hợp điển hình là không thay đổi. Ngoài ảnh hưởng của tuổi tác, nguyên nhân của nghe kém tiếp nhận thường gặp khác là tiếp xúc nhiều với tiếng ồn, chấn thương vùng đầu, bệnh hệ thống như đái tháo đường.
Đánh giá sức nghe (đo thính lực)
Trong phòng yên tĩnh, sức nghe của bệnh nhân có thể được đánh giá bằng cách yêu cầu bệnh nhân nhắc lại những từ được nói thầm, nói bình thường hoặc nói to.
Âm mẫu được dùng cho việc chẩn đoán phân biệt điếc dẫn truyền và tiếp nhận. Dùng âm mẫu 512 Hz, vì những tần số dưới mức này khó thể hiện đáp ứng (tiếp xúc).
Với nghiệm pháp Weber, âm thoa được đặt lần lượt trên trán hoặc răng cửa. Trong nghe kém dẫn truyền sẽ nghe rõ hơn ở bên tai bị bệnh, ngược lại trong nghe kém tiếp nhận nghe rõ hơn ở bên tai lành. Với nghiệm pháp Rinne, âm thoa được đặt lần lượt lúc ở mặt xương chũm, lúc ở phía trước của ống tai. Trong nghe kém dẫn truyền, đường xương nghe trội hơn đường khí, còn trong điếc tiếp nhận thì ngược lại.
Đo thính lực (hoàn chỉnh) được thực hiện bởi nhà thính học trong phòng cách âm. Các ngưỡng nghe đơn âm tính theo dB được đo trong các khoảng từ 250 đến 8000 Hz. Các tần số tiếng nói chính ở khoảng từ 500 đến 3000 Hz) đối với cả đường khí và đường xương.
Điếc dẫn truyền làm tăng khoảng cách giữa ngưỡng nghe đường khí và đường xương trong khi đó nghe kém tiếp nhận các ngưỡng nghe đường khí và đường xương cùng giảm xuống. Ngưỡng nghe bình thường là từ 0 đến 20 dB. Tương ứng với âm của tiếng nói thầm. Nghe kém nhẹ được xác định bởi ngưỡng nghe 20 - 40 dB (tương đương tiếng nói nhỏ). Nghe kém vừa có ngưỡng nghe 40 - 60 dB (tiếng nói bình thường). Nghe kém nặng có ngưỡng nghe 60 - 80 dB (tiếng nói to). Điếc đặc có ngưỡng nghe trên 80 dB (hét to). Sự rõ ràng của nghe thường bị tổn thương trong nghe kém do thần kinh. Nó được đánh giá bằng test phân biệt lời nói, kết quả trả lời tính theo tỷ lệ phần trăm trả lời đúng (90 - 100% là bình thường).
Vị trí của tổn thương tương ứng với mất cảm giác thần kinh, hoặc nằm ở ốc tai hoặc ở trung tâm thính giác, có thể được xác định bằng sự trả lời của kích thích âm điện não.
Những bệnh nhân phàn nàn vì giảm nghe cần được đánh giá về thính học trừ những trường hợp quá dễ dàng (như nút ráy) hoặc những bệnh chỉ diễn ra trong giai đoạn ngắn (như viêm tai cấp). Kiểm tra về thính lực không đặt ra với người lớn có sức nghe bình thường, trừ khi họ tiếp xúc nhiều với những tiếng động có thể gây tổn thượng, hoặc đã quá 65 tuổi. Sau đó nên kiểm tra lại vài năm 1 lần.
Phục hồi sức nghe
Những bệnh nhân bị điếc mà không thể điều trị được bằng nội khoa có thể dùng máy tăng âm.
Các mảy trợ thính hiện đại không làm méo tiếng và được thu nhỏ để đút vào trong ống tai. Để có hiệu quả tốt, các máy trợ thính phài được chọn lọc kỹ để phù hợp với từng loại nghe kém. Ngày nay đã có những máy trợ thính có chương trình xử lý dữ liệu để dùng và hứa hẹn có thể cải thiện khả năng nhận biết tiếng nói, đặc biệt trong những trường hợp khó nghe.
Ngoài các máy trợ thính, có nhiều phương tiện khác có thể giúp bệnh nhân giao tiếp với cá nhân hoặc nhóm, giúp nghe chương trình vô tuyến phát thanh và điện thoại giao tiếp. Những người điếc đặc được cấp điện cực ốc tai, đây là một thiết bị điện tử được phẫu thuật cấy vào để kích thích thần kinh nghe tạo nên sự phục hồi chức năng nghe có hiệu quả về mặt xã hội cho hầu hết người lớn bị điếc mắc phải.
Bài viết cùng chuyên mục
Bạch sản, hồng sản và ung thư miệng
Bất cứ là hồng sản hoặc bạch sản lan rộng, các bác sĩ đều nên rạch sinh thiết hoặc làm tế bào tróc vì cần phải điều trị cho bệnh nhân.
Các rối loạn thanh quản hay gặp
Nếu người lớn bị viêm thanh thiệt được phát hiện sớm có thể tránh được đặt ống nội khí quản, trong những trường hợp này theo dõi nồng độ bão hòa oxy huyết cầu tố bằng máy đo oxy.
Ù tai: bệnh lý tai trong
Ù tai theo nhịp mạch phải được phân biệt với ù tai âm. Tiếng mạch đập thường do điếc dẫn truyền làm tăng sự truyền tiếng đập của động mạch cảnh rõ hơn.
Viêm mũi do virus: cảm cúm
Thuốc xịt mũi như oxymetazolin hoặc phenylephrin có tác dụng nhanh chóng, không nên dùng các thuốc này kéo dài vì sẽ gây nên xung huyết trở lại mà thường là nặng hơn lúc đầu.
Liệt dây thanh âm
Liệt dây thanh âm hai bên thường gây nên thở rít. Nếu khởi phát đột ngột, thở rít cả thì thở ra và hít vào, gây nên hẹp đường thở thì phải mở giáp móng cấp cứu.
Cắt amidan
Hiện nay thấy rõ ràng là các bệnh nhân phẫu thuật cắt amidan ngoại trú thường an an toàn nếu theo dõi trong thời gian 6 giờ mà không có biến có gì.
Các nhiễm khuẩn vùng cổ sâu
Nền tảng của điều trị bao gồm bảo đảm thông suốt đường thở, tiêm truyền kháng sinh và chích rạch dẫn lưu đường thở có thể được bảo đảm bằng phương pháp đặt nội khí quản hoặc mở khí quản.
Bệnh nấm mucor mũi nội sọ
Triệu chứng khởi đầu có thể giống như viêm xoang nhiễm khuẩn, mặc dầu triệu chứng đau mặt thường dữ dội hơn. Khám niêm mạc mũi cố vẻ biểu hiện màu đen, và hoại tử chính ở cuốn dưới.
Chóng mặt do bệnh lý tai trong
Khám thực thể tối thiểu cho bệnh nhân chóng mặt gồm test Romberg, đánh giá dáng đi, quan sát có rung giật nhãn cầu hay không.
Đau tai: chẩn đoán và điều trị
Đau tai dữ dội mà không tương ứng với phát hiện thực thể có thể do virus zona ở tai, đặc biệt khi có những phổng nước ở ống tai hoặc hố thuyền.
Tổn thương loét trong miệng
Viêm lợi miệng do herpes là thường gặp, bệnh nhẹ, diễn biến trong thời gian ngắn và không cần can thiệp gì ở hầu hết bệnh nhân là người lớn.
Viêm tiền đình do mũi
Điều trị đầy đủ nhiễm khuẩn rất quan trọng để ngăn chặn nhiễm khuẩn ngược dòng qua đường tĩnh mạch vào xoang tĩnh mach hang và vào nôi sọ.
Chấn thương mũi
Nghĩ tới gãy xương khi sờ thấy lạo xạo hoặc thấy những mảnh xương di động. Chảy máu và đau thường gặp, cũng như những tụ máu ở phần mềm (dấu hiệu mắt đen).
Các biểu hiện ở tai của bệnh AIDS
Các bệnh nhân AIDS thường phàn nàn có ảnh hưởng tới tai trong, nghe kém tiếp nhận thường gặp và một số trưồng hợp do nhiễm virus hệ thần kinh trung ương.
Các khối u lành tính trong mũi
Ù nhú đảo ngược là u lành tính thường xuất phát ở thành bên của mũi, biểu hiện bằng tắc mũi một bên, đôi khi chảy máu.
Chảy máu mũi
Hầu hết các trường hợp chảy máu mũi trước có thể cầm bằng ép trực tiếp vào điểm chảy máu. Cánh mũi phải được ép chặt ít nhất 10 phút.
Biểu hiện của nhiễm HIV tai mũi họng
Sự tăng lên của u carcinom tế bào vẩy cũng thấy ở nhóm người đồng tính luyến ái, có lẽ cũng liên quan đến nhiễm HIV.
Bệnh u hạt Wegener, bệnh tăng tế bào lưới đa hình thái, bệnh sarcoid
Bệnh sarcoid cũng thường biểu hiện ở xoang và triệu chứng lâm sàng cũng tương tự. Sinh thiết thấy tổ chức hạt không hoại tử.
Bệnh nấm candida
Chẩn đoán thường không khó, những mảng trắng trong miệng gây đau trên nền xung huyết ở những bệnh nhân có nguy cơ nhiễm nấm candida.
Bệnh lý vành tai
Cũng tương tự, những trường hợp bị viêm mô tế bào vành tai phải được điều trị ngay đề phòng sự tiến triển tới viêm màng sụn và các hậu quả biến dạng của nó.
Bệnh lý vòi nhĩ: vòi eustachi
Trường hợp mở vòi nhĩ quá mức hiếm gặp và khó điều trị. Bệnh nhân thường phàn nàn là cảm giác đầy trong tai và tự thính, bệnh nhân nghe thấy mình thở hoặc nói.
Các bệnh biểu hiện có khối ở vùng cổ
Các chuỗi hạch cổ bình thường không thể sờ thấy. Các nhiễm khuẩn vùng họng, tuyến nước bọt và da vùng đầu thường gây hạch vùng cổ to và đau.
Các khối u ác tính vùng mũi họng và xoang
Ung thư biểu mô lát hay gặp nhất ở vùng giải phẫu này, đặc biệt hay gặp ở vùng mũi họng, ở đây nó thường hay gây tắc vòi nhĩ và viêm tai tiết dịch.
Rối loạn chức năng khứu giác
Mất, giảm, biến dạng mùi hoặc vị giác được thông báo ở những bệnh nhân có rối loạn nội tiết, dinh dưỡng và thần kinh.
Viêm xoang cấp
Viêm xoang xảy ra khi không dẫn lưu được mủ ứ đọng trong xoang. Các bệnh làm phù nề niêm mạc như viêm mũi do virus, viêm mũi dị ứng là những nguyên nhân thường gặp.