Chảy máu mũi
Hầu hết các trường hợp chảy máu mũi trước có thể cầm bằng ép trực tiếp vào điểm chảy máu. Cánh mũi phải được ép chặt ít nhất 10 phút.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Chảy máu từ điểm mạnh Kiesselbach, đám rối mạch ở phần trước của vách ngăn là loại hay gặp nhất trong chảy máu vách ngăn. Các yếu tố gây chảy máu mũi gồm chấn thương mũi (ngoáy mũi, dị vật, hắt hơi qúa mạnh), viêm mũi, khô niêm mạc mũi do độ ẩm ở mức thấp và vẹo vách ngăn.
Hầu hết các trường hợp chảy máu mũi trước có thể cầm bằng ép trực tiếp vào điểm chảy máu. Cánh mũi phải được ép chặt ít nhất 10 phút. Áp lực tĩnh mạch được giảm ở tư thế ngồi và cúi về trước để đỡ nuốt phải máu. Các thuốc co mạch tác dụng ngắn phenylephrin 0,125 - 1% dùng 1 hoặc 2 lần xịt có thể có tác dụng. Khi chảy máu không thực sự giảm nên thăm khám mũi với nguồn sáng và máy hút tốt để xác định vị trí chảy máu. Dùng cocain 4% xịt hoặc tẩm bông đặt tại chỗ vừa giảm đau, vừa co mạch. Khi đã nhìn thấy nơi chảy máu có thể đốt bằng nitrat bạc, nhiệt hay đông điện hỗ trợ thêm. Có thể dùng mảnh Surgicel hoặc Gelfoam để nhét mũi.
Đôi khi, vị trí của chảy máu không thể nhìn thấy được hoặc cố gắng để cầm bị thất bại, trong những trường hợp như vậy nhét bấc mũi là cần thiết. Nhét bấc mũi trưóc cần nhiều đoạn bấc dài nửa inch tẩm bacitracin hoặc dầu nhờn. Khi nhét bấc cần cẩn thận và trình tự dọc theo sàn mũi lên đến trên mũi. Nếu dụng cụ để nhẻt bấc không đủ, có thể dùng các quả bóng đã được chế tạo để cầm máu mũi hay với các dung dịch đặc hiệu.
Khoảng 5% chảy máu mũi có nguồn gốc ở mũi sau. Cần đặt bấc chèn cửa mũi sau trước khi đặt bấc mũi trước, vì nhét bấc mũi rất khó chịu cho bệnh nhân và cần cung cấp oxy cho bệnh nhân để tránh hạ oxy máu, nên cho bệnh nhân nằm viện vài ngày. Thuốc giảm đau (tiền mê) cần thiết để giảm sự khó chịu và tăng huyết áp do nhét bấc mũi sau. Thắt động mạch cấp máu cho mũi (động mạch hàm trong và động mạch sàng) được làm cùng với nhét bấc mũi sau. Chỉ định phẫu thuật là cận thiết khi nhét bấc mũi không có kết quả trong chảy máu nặng đe dọa tính mạng bệnh nhân. Đôi khi cần làm nghẽn mạch chọn lọc hoặc thắt mạch cảnh ngoài.
Sau khi đã cầm được máu, cần khuyên bệnh nhân tránh hoạt động mạnh trong nhiều ngày, tránh ăn thức ăn nóng, cay và hút thuốc lá vì có thể gây giãn mạch, tránh các chấn thương vùng mũi, kể cả những chấn thương do ngón tay ngoáy mũi là cần thiết. Bôi dầu cao hoặc mỡ bacitricin và tăng độ ẩm trong nhà có tác dụng phòng chảy máu mũi. Điều quan trọng là tất cả các bệnh nhân chảy máu mũi cần được lưu ý tìm các nguyên nhân gây chảy máu. Cần làm các xét nghiệm về chảy máu đặc biệt các trường hợp tái phát. Các nguyên nhân khác gây chảy máu tái phát như giãn mao mạch, chảy máu di truyền (Osler - Weber - Rendu) cũng cần lưu ý.
Tương tự, khi giai đoạn cấp đã qua, việc thăm khám cẩn thận mũi và các xoang là cần thiết.
Bài viết cùng chuyên mục
Rối loạn chức năng khứu giác
Mất, giảm, biến dạng mùi hoặc vị giác được thông báo ở những bệnh nhân có rối loạn nội tiết, dinh dưỡng và thần kinh.
Các biểu hiện ở tai của bệnh AIDS
Các bệnh nhân AIDS thường phàn nàn có ảnh hưởng tới tai trong, nghe kém tiếp nhận thường gặp và một số trưồng hợp do nhiễm virus hệ thần kinh trung ương.
Cắt amidan
Hiện nay thấy rõ ràng là các bệnh nhân phẫu thuật cắt amidan ngoại trú thường an an toàn nếu theo dõi trong thời gian 6 giờ mà không có biến có gì.
Bệnh lý tai giữa
Các loại vi khuẩn hay gặp ở cả người lớn và trẻ em là Streptococcus Pneumonia, Hemophilus Influenzae và S. pyogenes.
Nghe kém tiếp nhận: bệnh lý tai trong
Những chất gây nhiễm độc tai có thể tác dụng lên cả hệ thính giác và tiền đình. Những thuốc gây nhiễm độc tai hay gặp nhất là salycylat, aminoglycosid, thuốc lợi tiểu.
Các nhiễm khuẩn vùng cổ sâu
Nền tảng của điều trị bao gồm bảo đảm thông suốt đường thở, tiêm truyền kháng sinh và chích rạch dẫn lưu đường thở có thể được bảo đảm bằng phương pháp đặt nội khí quản hoặc mở khí quản.
Các khối u ác tính vùng mũi họng và xoang
Ung thư biểu mô lát hay gặp nhất ở vùng giải phẫu này, đặc biệt hay gặp ở vùng mũi họng, ở đây nó thường hay gây tắc vòi nhĩ và viêm tai tiết dịch.
Viêm mũi dị ứng
Dùng steroid trong viêm mũi có vai trò với dị ứng theo mùa, có polip mũi, thường làm giảm các chỉ định phẫu thuật.
Viêm cấp và mạn tuyến nước bọt do loạn sản
Sinh bệnh học là sự tắc nghẽn các ống tuyến thường gây ra bởi sự cô đặc dịch nhầy gây bít tắc, tiếp theo sau là ứ nước bọt và nhiễm khuẩn thứ phát.
Chấn thương mũi
Nghĩ tới gãy xương khi sờ thấy lạo xạo hoặc thấy những mảnh xương di động. Chảy máu và đau thường gặp, cũng như những tụ máu ở phần mềm (dấu hiệu mắt đen).
Bạch sản, hồng sản và ung thư miệng
Bất cứ là hồng sản hoặc bạch sản lan rộng, các bác sĩ đều nên rạch sinh thiết hoặc làm tế bào tróc vì cần phải điều trị cho bệnh nhân.
Bệnh nấm candida
Chẩn đoán thường không khó, những mảng trắng trong miệng gây đau trên nền xung huyết ở những bệnh nhân có nguy cơ nhiễm nấm candida.
U thanh quản
Việc điều trị đòi hỏi thay đổi thói quen về nói và được coi là phương pháp điều trị giọng nói. Với các hạt không hồi phục có thể đòi hỏi phải phẫu thuật lấy bỏ.
Nghe kém: chẩn đoán và điều trị
Nghe kém tiếp nhận là kết quả hư hại của ốc tai, thường do mất các tế bào lông của cơ quan Corti.
Biểu hiện của nhiễm HIV tai mũi họng
Sự tăng lên của u carcinom tế bào vẩy cũng thấy ở nhóm người đồng tính luyến ái, có lẽ cũng liên quan đến nhiễm HIV.
Chóng mặt do bệnh lý tai trong
Khám thực thể tối thiểu cho bệnh nhân chóng mặt gồm test Romberg, đánh giá dáng đi, quan sát có rung giật nhãn cầu hay không.
Tổn thương loét trong miệng
Viêm lợi miệng do herpes là thường gặp, bệnh nhẹ, diễn biến trong thời gian ngắn và không cần can thiệp gì ở hầu hết bệnh nhân là người lớn.
Viêm tiền đình do mũi
Điều trị đầy đủ nhiễm khuẩn rất quan trọng để ngăn chặn nhiễm khuẩn ngược dòng qua đường tĩnh mạch vào xoang tĩnh mach hang và vào nôi sọ.
U tuyến nước bọt
Hầu hết u của tuyến mang tai thể hiện như một khối không có triệu chứng ở phần ngoài của tuyến. Khối u có thể được bệnh nhân nhận thấy trong nhiều tháng hoặc nhiều năm.
Các bệnh biểu hiện có khối ở vùng cổ
Các chuỗi hạch cổ bình thường không thể sờ thấy. Các nhiễm khuẩn vùng họng, tuyến nước bọt và da vùng đầu thường gây hạch vùng cổ to và đau.
Các bệnh của hệ thống thính giác và tiền đình trung ương
Chóng mặt do tổn thương trung ương có xu hướng thành mạn tính và nhẹ hơn là chóng mặt gặp trong các bệnh mê nhĩ.
Viêm lưỡi và đau lưỡi
Đôi khi không tìm được nguyên nhân gây đau lưỡi. Bệnh quanh răng không phải là yếu tố gây đau lưỡi.
Bệnh lý ống tai
Dị vật ống tai thường gặp ở trẻ em hơn ở người lớn. Những chất rắn có thể được lấy bằng vòng hoặc móc ráy, cần cẩn thận để tránh đẩy dị vật vào trong.
Bệnh nấm mucor mũi nội sọ
Triệu chứng khởi đầu có thể giống như viêm xoang nhiễm khuẩn, mặc dầu triệu chứng đau mặt thường dữ dội hơn. Khám niêm mạc mũi cố vẻ biểu hiện màu đen, và hoại tử chính ở cuốn dưới.
Áp xe quanh amidan và viêm mô tế bào
Trong một vài trường hợp có đề nghị chấp nhận cắt amidan ngay cùng với dẫn lưu áp xe và tránh sự tái phát. Cả hai cách đều hợp lý và được ủng hộ trong y văn.