- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh tai mũi họng
- Các nhiễm khuẩn vùng cổ sâu
Các nhiễm khuẩn vùng cổ sâu
Nền tảng của điều trị bao gồm bảo đảm thông suốt đường thở, tiêm truyền kháng sinh và chích rạch dẫn lưu đường thở có thể được bảo đảm bằng phương pháp đặt nội khí quản hoặc mở khí quản.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những áp xe vùng cổ sâu thường thể hiện bằng triệu chứng sưng đau vùng cổ trên bệnh nhân có sốt nhiễm độc. Đây là những trường hợp khẩn cấp vì có thể nhanh chóng bị tổn thương đường thở, có thể lan tới trung thất hoặc gây ra nhiễm trùng huyết, thường gặp nhất là nguồn gốc nhiễm khuẩn răng miệng.
Những nguyên nhân khác bao gồm tấy mủ các hạch bạch huyết lan trực tiếp từ nhiễm khuẩn họng, các chấn thương xuyên, dị vật vùng họng thực quản và tiêm truyền tĩnh mạch vào tĩnh mạch cảnh trong, đặc biệt là chích ma túy.
Nền tảng của điều trị bao gồm bảo đảm thông suốt đường thở, tiêm truyền kháng sinh và chích rạch dẫn lưu đường thở có thể được bảo đảm bằng phương pháp đặt nội khí quản hoặc mở khí quản. Mở khí quản được lựa chọn trong trường hợp người bệnh bị phù nề vùng hầu, trong khi cố gắng đặt nội khí quản cũng có thể dễ gây ra tắc nghẽn đường thở cấp tính. CT scan có thể giúp xác định sự tiến triển của áp xe, chảy máu phối hợp với áp xe ở vùng cổ có khả năng tổn thương động mạch cảnh hoặc tĩnh mạch cảnh trong, đặt ra yêu cầu phải tiến hành kịp thời mở vùng cổ cho cả dẫn lưu và thắt buộc các mạch.
Chứng viêm họng Ludwig thường hay gặp nhất trong các nhiễm khuẩn ở vùng cổ. Đó là viêm mô tế bào vùng dưới lưỡi và dưới hàm, thường xuất hiện sau nhiễm khuẩn chân răng, lan truyền theo đường cơ móng của hàm dưới. Về lâm sàng có phù nề và ban đỏ vùng cổ trên, dưới cằm và thường cả sau miệng. Lưỡi có thể bị đẩy lên trên hoặc ra sau do sự lan tràn ra phía sau của viêm mô tế bào. Điều này có thể dẫn tới tắc nghẽn đường thở và cần mở khí quản.
Phân lập vi khuẩn cho kết quả gồm liên cầu, bacteroid, và khuẩn hình thoi. Việc nhập viện và tiêm truyền kháng sinh tĩnh mạch là cần thiết. Thường dùng penicilin kết hợp metronidazol, ampicilin sulbactam, clinamycin, hoặc một loại cephalosporin là những thuốc lựa chọn sơ bộ ban đầu. Kết quả nuôi cấy và độ nhậy kháng sinh sẽ cho lựa chọn chi tiết. Nên tiến hành thăm khám về răng miệng, rạch dẫn lưu dưới cằm ngay lập tức khi đường thở bị đe dọa và khi các biện pháp điều trị nội khoa không mang lại kết quả.
Bài viết cùng chuyên mục
Bạch sản, hồng sản và ung thư miệng
Bất cứ là hồng sản hoặc bạch sản lan rộng, các bác sĩ đều nên rạch sinh thiết hoặc làm tế bào tróc vì cần phải điều trị cho bệnh nhân.
Nghe kém: chẩn đoán và điều trị
Nghe kém tiếp nhận là kết quả hư hại của ốc tai, thường do mất các tế bào lông của cơ quan Corti.
Các rối loạn thanh quản hay gặp
Nếu người lớn bị viêm thanh thiệt được phát hiện sớm có thể tránh được đặt ống nội khí quản, trong những trường hợp này theo dõi nồng độ bão hòa oxy huyết cầu tố bằng máy đo oxy.
Nghe kém tiếp nhận: bệnh lý tai trong
Những chất gây nhiễm độc tai có thể tác dụng lên cả hệ thính giác và tiền đình. Những thuốc gây nhiễm độc tai hay gặp nhất là salycylat, aminoglycosid, thuốc lợi tiểu.
Các bệnh biểu hiện có khối ở vùng cổ
Các chuỗi hạch cổ bình thường không thể sờ thấy. Các nhiễm khuẩn vùng họng, tuyến nước bọt và da vùng đầu thường gây hạch vùng cổ to và đau.
Viêm mũi do virus: cảm cúm
Thuốc xịt mũi như oxymetazolin hoặc phenylephrin có tác dụng nhanh chóng, không nên dùng các thuốc này kéo dài vì sẽ gây nên xung huyết trở lại mà thường là nặng hơn lúc đầu.
Ù tai: bệnh lý tai trong
Ù tai theo nhịp mạch phải được phân biệt với ù tai âm. Tiếng mạch đập thường do điếc dẫn truyền làm tăng sự truyền tiếng đập của động mạch cảnh rõ hơn.
Bệnh u hạt Wegener, bệnh tăng tế bào lưới đa hình thái, bệnh sarcoid
Bệnh sarcoid cũng thường biểu hiện ở xoang và triệu chứng lâm sàng cũng tương tự. Sinh thiết thấy tổ chức hạt không hoại tử.
Viêm họng và viêm amidan
Những căn nguyên phổ biến khác ngoài nhóm liên cầu β tan huyết nhóm A cần chuẩn đoán phân biệt đau họng do virus, Neisseria gonorrhoeae, Mycoplasma và Chlamydia Trachomatis.
Đau tai: chẩn đoán và điều trị
Đau tai dữ dội mà không tương ứng với phát hiện thực thể có thể do virus zona ở tai, đặc biệt khi có những phổng nước ở ống tai hoặc hố thuyền.
Bệnh nấm mucor mũi nội sọ
Triệu chứng khởi đầu có thể giống như viêm xoang nhiễm khuẩn, mặc dầu triệu chứng đau mặt thường dữ dội hơn. Khám niêm mạc mũi cố vẻ biểu hiện màu đen, và hoại tử chính ở cuốn dưới.
Viêm mũi dị ứng
Dùng steroid trong viêm mũi có vai trò với dị ứng theo mùa, có polip mũi, thường làm giảm các chỉ định phẫu thuật.
Chấn thương mũi
Nghĩ tới gãy xương khi sờ thấy lạo xạo hoặc thấy những mảnh xương di động. Chảy máu và đau thường gặp, cũng như những tụ máu ở phần mềm (dấu hiệu mắt đen).
Các khối u lành tính trong mũi
Ù nhú đảo ngược là u lành tính thường xuất phát ở thành bên của mũi, biểu hiện bằng tắc mũi một bên, đôi khi chảy máu.
Dị vật khí phế quản, thực quản
Dị vật khí phế quản nên được lấy ra dưới gây mê toàn thân tiến hành bởi người có kinh nghiệm đặt ống nội khí quản phối hợp với người gây mê có kinh nghiệm.
U tuyến nước bọt
Hầu hết u của tuyến mang tai thể hiện như một khối không có triệu chứng ở phần ngoài của tuyến. Khối u có thể được bệnh nhân nhận thấy trong nhiều tháng hoặc nhiều năm.
Khàn tiếng và thở rít: bệnh lý thanh quản
Giọng thô ráp khi sự xáo động tạo nên do sự bất thường của dây thanh âm như viêm thanh quản hoặc khối u dây thanh âm.
Viêm xoang cấp
Viêm xoang xảy ra khi không dẫn lưu được mủ ứ đọng trong xoang. Các bệnh làm phù nề niêm mạc như viêm mũi do virus, viêm mũi dị ứng là những nguyên nhân thường gặp.
Cắt amidan
Hiện nay thấy rõ ràng là các bệnh nhân phẫu thuật cắt amidan ngoại trú thường an an toàn nếu theo dõi trong thời gian 6 giờ mà không có biến có gì.
Biểu hiện của nhiễm HIV tai mũi họng
Sự tăng lên của u carcinom tế bào vẩy cũng thấy ở nhóm người đồng tính luyến ái, có lẽ cũng liên quan đến nhiễm HIV.
Các bệnh của hệ thống thính giác và tiền đình trung ương
Chóng mặt do tổn thương trung ương có xu hướng thành mạn tính và nhẹ hơn là chóng mặt gặp trong các bệnh mê nhĩ.
Các biểu hiện ở tai của bệnh AIDS
Các bệnh nhân AIDS thường phàn nàn có ảnh hưởng tới tai trong, nghe kém tiếp nhận thường gặp và một số trưồng hợp do nhiễm virus hệ thần kinh trung ương.
Bệnh lý ống tai
Dị vật ống tai thường gặp ở trẻ em hơn ở người lớn. Những chất rắn có thể được lấy bằng vòng hoặc móc ráy, cần cẩn thận để tránh đẩy dị vật vào trong.
Bệnh lý tai giữa
Các loại vi khuẩn hay gặp ở cả người lớn và trẻ em là Streptococcus Pneumonia, Hemophilus Influenzae và S. pyogenes.
Viêm cấp và mạn tuyến nước bọt do loạn sản
Sinh bệnh học là sự tắc nghẽn các ống tuyến thường gây ra bởi sự cô đặc dịch nhầy gây bít tắc, tiếp theo sau là ứ nước bọt và nhiễm khuẩn thứ phát.