- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh tai mũi họng
- Các bệnh biểu hiện có khối ở vùng cổ
Các bệnh biểu hiện có khối ở vùng cổ
Các chuỗi hạch cổ bình thường không thể sờ thấy. Các nhiễm khuẩn vùng họng, tuyến nước bọt và da vùng đầu thường gây hạch vùng cổ to và đau.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Chẩn đoán phân biệt các khối vùng cổ phụ thuộc chặt chẽ vào vị trí của khối ở cổ, tuổi bệnh nhân, và sự tiến triển của bệnh, khối phát triển nhanh chóng, và đau gợi ý là quá trình viêm; trong khi cứng, không đau và to ra chậm lại thường là các khối u.
Ở người trẻ, hầu hết các khối u là lành tính (u nang cung mang, nang giáp - lưỡi, viêm hạch phản ứng), tuy vậy nên luôn nghĩ đến các u ác tính (u lympho, ung thư tuyến giáp di căn, và các u khác).
Bệnh lý hạch thường gặp ở những người HIV dương tính nhưng những khối u đang phát triển hoặc khối u lấn át có thể là u lympho hoặc di căn của ung thư tế bào vảy; ở những người trên 40 tuổi, ung thư là nguyên nhân hay gặp nhất của các khối u lâu ngày ở vùng cổ. Di căn từ ung thư tế bào vảy ở miệng, họng, thanh quản hoặc những phần trên thực quản cần nghi ngờ và đặc biệt nếu bệnh nhân có tiền sử hút thuốc hoặc uống rượu nhiều. Ở những bệnh nhân trẻ dưới 30 tuổi và già hơn 70 tuổi cần nghĩ đến u lympho nhiều hơn. Khám kỹ lưỡng về tai mũi họng là điều quan trọng nhất, đánh giá tế bào học qua chọc hút khối u bằng kim nhỏ là bước tiếp theo nếu khối u tiên phát không nhìn thấy hoặc không sờ thấy khi khám thực thể.
Các tổn thương bẩm sinh biểu hiện dưới dạng khối ở vùng cổ của người lớn
Nang cung mang
Thường biểu hiện là nang mềm, dọc bờ trước cơ ức đòn chũm. Các tổn thương này thường được phát hiện ở tuổi 20 đến 30, khi chúng đột nhiên to lên hoặc bị nhiễm khuẩn. Để phòng nhiễm khuẩn tái phát và có thể bị ung thư hóa, các nang này nên được cắt bỏ hoàn toàn, dọc theo đường dò của chúng.
Nang cung mang thứ nhất ở vùng cổ cao, đôi khi ngay dưới tai, có thể thấy lỗ dò nối với sàn của ống tai ngoài. Dò cung mang thứ hai hay gặp hơn, có thể nối với hốc amidan. Dò cung mang thứ ba có thể mở vào xoang lê, loại này hiếm gặp.
Dò giáp - lưỡi
Đây là tàn tích của quá trình phát triển bào thai của tuyến giáp đi từ củ đơn ở đáy lưỡi xuống tới vị trí thường thấy ở dưới cổ. Mặc dù bệnh có thể xảy ra ở bất kỳ tuổi nào, nhưng chúng thường gặp nhất trước 20 tuổi. Biểu hiện bệnh là khối ở giữa cổ, thường ngay dưới xương móng, di động theo nhịp nuốt, Phẫu thuật nhằm đề phòng nhiễm khuẩn tái phát. Cần cắt bỏ toàn bộ đường dò với phần giữa của xương móng.
Các khối nhiễm khuẩn và viên ở cổ
Bệnh hạch lympho vùng cố phản ứng
Các chuỗi hạch cổ bình thường không thể sờ thấy. Các nhiễm khuẩn vùng họng, tuyến nước bọt và da vùng đầu thường gây hạch vùng cổ to và đau. Hạch to thường gặp ở những người bị nhiễm HIV. Trừ những trường hợp hạch mưng mủ mới cần trích rạch dẫn lưu, còn lại điều trị chỉ là chống nhiễm khuẩn. Đối với những hạch to và kéo dài có thể dùng kim nhỏ chọc hút để xác định sưng chỉ là do phản ứng và loại trừ khối u ác tính. Hạch to không liên quan với nhiễm khuẩn cần phải được khám xét thêm.
Các nhiễm khuẩn Mycobacteria vùng cổ không điển hình (bệnh tràng nhạc)
Các khối u tổ chức hạt vùng cổ không phải là không thường gặp, chẩn đoán phân biệt gồm bệnh mèo cào, bệnh sarcoid và viêm hạch do mycobacteria. Viêm hạch do mycobacteria không điển hình (bệnh tràng nhạc) thường biểu hiện như bệnh lý hạch dai dẳng, có thể trở nên cố định vào da và vỡ ra ngoài. Mặc dầu chọc hút bằng kim nhỏ có thể thấy tổ chức hạt, việc chứng minh mycobacteria bằng nhuộm acid nhanh (bệnh phẩm lấy bằng chọc hút kim hoặc mở ra sinh thiết) hoặc cấy vi khuẩn là cần thiết để xác định chẩn đoán và phát hiện độ nhạy kháng sinh. Điều trị bệnh tràng nhạc thành công nhất là lấy bỏ toàn bộ các hạch bệnh lý và dùng kháng sinh chống lao ít nhất 6 tháng. Kháng sinh được chỉ định dựa vào kết quả kháng sinh đồ nhưng thường gồm isoniazid, rifampin dùng ít nhất 2 tháng đầu, ethambutol trong liều chuẩn. Phẫu thuật lấy toàn bộ hạch có thể có nhiều nguy hiểm (gần dây thần kinh VII). Điều trị thử bằng chọc hút, chích rạch và dẫn lưu là cổ giá trị (cùng với điều trị chống lao). Viêm hạch do mycobacteria trong số bệnh nhân HIV tăng cao.
Bệnh Lyme
Bệnh Lyme do xoắn khuẩn Borrelia burgdorferi và lan truyền qua bọ tic Ixodes ricinus. Biểu hiện bệnh có thể thay đổi hình dạng, nhưng trên 75% các bệnh nhân có triệu chứng ở vùng đàu cổ. Liệt mặt, mất cảm giác, loạn vị giác và tổn thương các dây thần kinh sọ não khác thường gặp nhất. Có thể có đau đầu và sưng và đau hạch cổ.
Các khối u di căn
Ở người già 80% các khối vùng cổ rắn, có lâu ngày và to ra là do di căn. Phần lớn là các di căn của ung thư tế bào vảy đường hô hấp và tiêu hóa trên. Khám đầu cổ một cách hoàn chỉnh có thể phát hiện được u nguyên phát; nhưng thăm khám dưới gây mê toàn thân với soi thanh quản, phế quản, thực quản trực tiếp thường dùng để đánh giá đầy đủ về khối u và loại trừ nguồn gốc thứ phát. Thường cần chẩn đoán tế bào học nếu thăm khám vùng cổ không phát hiện được khối u tiên phát. Mở khối u để sinh thiết chỉ thực hiện khi các thăm khám thực thể không phát hiện được u nguyên phát và chọc hút bằng kim nhỏ cũng không khu trú được chẩn đoán. Ngoài ung thư tuyến giáp, các di căn của tể bào không là tế bào vảy di căn ở vùng cổ không hay gặp. Trong khi các khối u không có vùng đầu cổ rất hiếm khi di căn tới vùng cổ giữa và cổ trên; vùng trên đòn rất thường liên quan đến các khối u phổi và u vú. Các khối u dưới cơ hoành, trừ ung thư thận, hiếm khi di căn ở vùng cổ.
U lympho
Khoảng 10% u lympho biểu hiện ở vùng đầu và cổ. Khi có nhiều hạch theo chuỗi, đặc biệt là ở người trẻ thì nên nghĩ tới bệnh này. Qua thăm khám thực thể kỹ có thể phát hiện được các vị trí hạch khác hoặc cơ quan bị tổn thương. Chọc hút bằng kim có thể giúp ích chẩn đoán, nhưng cần mở u để sinh thiết.
Bài viết cùng chuyên mục
Viêm tiền đình do mũi
Điều trị đầy đủ nhiễm khuẩn rất quan trọng để ngăn chặn nhiễm khuẩn ngược dòng qua đường tĩnh mạch vào xoang tĩnh mach hang và vào nôi sọ.
Tổn thương loét trong miệng
Viêm lợi miệng do herpes là thường gặp, bệnh nhẹ, diễn biến trong thời gian ngắn và không cần can thiệp gì ở hầu hết bệnh nhân là người lớn.
Cắt amidan
Hiện nay thấy rõ ràng là các bệnh nhân phẫu thuật cắt amidan ngoại trú thường an an toàn nếu theo dõi trong thời gian 6 giờ mà không có biến có gì.
Viêm mũi dị ứng
Dùng steroid trong viêm mũi có vai trò với dị ứng theo mùa, có polip mũi, thường làm giảm các chỉ định phẫu thuật.
Các khối u lành tính trong mũi
Ù nhú đảo ngược là u lành tính thường xuất phát ở thành bên của mũi, biểu hiện bằng tắc mũi một bên, đôi khi chảy máu.
Bệnh u hạt Wegener, bệnh tăng tế bào lưới đa hình thái, bệnh sarcoid
Bệnh sarcoid cũng thường biểu hiện ở xoang và triệu chứng lâm sàng cũng tương tự. Sinh thiết thấy tổ chức hạt không hoại tử.
Viêm họng và viêm amidan
Những căn nguyên phổ biến khác ngoài nhóm liên cầu β tan huyết nhóm A cần chuẩn đoán phân biệt đau họng do virus, Neisseria gonorrhoeae, Mycoplasma và Chlamydia Trachomatis.
Các nhiễm khuẩn vùng cổ sâu
Nền tảng của điều trị bao gồm bảo đảm thông suốt đường thở, tiêm truyền kháng sinh và chích rạch dẫn lưu đường thở có thể được bảo đảm bằng phương pháp đặt nội khí quản hoặc mở khí quản.
Biểu hiện của nhiễm HIV tai mũi họng
Sự tăng lên của u carcinom tế bào vẩy cũng thấy ở nhóm người đồng tính luyến ái, có lẽ cũng liên quan đến nhiễm HIV.
Áp xe quanh amidan và viêm mô tế bào
Trong một vài trường hợp có đề nghị chấp nhận cắt amidan ngay cùng với dẫn lưu áp xe và tránh sự tái phát. Cả hai cách đều hợp lý và được ủng hộ trong y văn.
Mở khí quản và mở màng nhẫn giáp
Chăm sóc sau mở khí quản là cần làm ẩm không khí đề phòng tạọ vảy bít tắc ống đặt khí quản, ống trong phải được rửa sạch vài lần trong ngày.
Viêm mũi do virus: cảm cúm
Thuốc xịt mũi như oxymetazolin hoặc phenylephrin có tác dụng nhanh chóng, không nên dùng các thuốc này kéo dài vì sẽ gây nên xung huyết trở lại mà thường là nặng hơn lúc đầu.
Bệnh lý ống tai
Dị vật ống tai thường gặp ở trẻ em hơn ở người lớn. Những chất rắn có thể được lấy bằng vòng hoặc móc ráy, cần cẩn thận để tránh đẩy dị vật vào trong.
U thanh quản
Việc điều trị đòi hỏi thay đổi thói quen về nói và được coi là phương pháp điều trị giọng nói. Với các hạt không hồi phục có thể đòi hỏi phải phẫu thuật lấy bỏ.
Bệnh nấm candida
Chẩn đoán thường không khó, những mảng trắng trong miệng gây đau trên nền xung huyết ở những bệnh nhân có nguy cơ nhiễm nấm candida.
Dị vật khí phế quản, thực quản
Dị vật khí phế quản nên được lấy ra dưới gây mê toàn thân tiến hành bởi người có kinh nghiệm đặt ống nội khí quản phối hợp với người gây mê có kinh nghiệm.
Bệnh lý vòi nhĩ: vòi eustachi
Trường hợp mở vòi nhĩ quá mức hiếm gặp và khó điều trị. Bệnh nhân thường phàn nàn là cảm giác đầy trong tai và tự thính, bệnh nhân nghe thấy mình thở hoặc nói.
Nghe kém: chẩn đoán và điều trị
Nghe kém tiếp nhận là kết quả hư hại của ốc tai, thường do mất các tế bào lông của cơ quan Corti.
Liệt dây thanh âm
Liệt dây thanh âm hai bên thường gây nên thở rít. Nếu khởi phát đột ngột, thở rít cả thì thở ra và hít vào, gây nên hẹp đường thở thì phải mở giáp móng cấp cứu.
Viêm xoang cấp
Viêm xoang xảy ra khi không dẫn lưu được mủ ứ đọng trong xoang. Các bệnh làm phù nề niêm mạc như viêm mũi do virus, viêm mũi dị ứng là những nguyên nhân thường gặp.
Chảy máu mũi
Hầu hết các trường hợp chảy máu mũi trước có thể cầm bằng ép trực tiếp vào điểm chảy máu. Cánh mũi phải được ép chặt ít nhất 10 phút.
Các rối loạn thanh quản hay gặp
Nếu người lớn bị viêm thanh thiệt được phát hiện sớm có thể tránh được đặt ống nội khí quản, trong những trường hợp này theo dõi nồng độ bão hòa oxy huyết cầu tố bằng máy đo oxy.
Rối loạn chức năng khứu giác
Mất, giảm, biến dạng mùi hoặc vị giác được thông báo ở những bệnh nhân có rối loạn nội tiết, dinh dưỡng và thần kinh.
Viêm cấp và mạn tuyến nước bọt do loạn sản
Sinh bệnh học là sự tắc nghẽn các ống tuyến thường gây ra bởi sự cô đặc dịch nhầy gây bít tắc, tiếp theo sau là ứ nước bọt và nhiễm khuẩn thứ phát.
Ù tai: bệnh lý tai trong
Ù tai theo nhịp mạch phải được phân biệt với ù tai âm. Tiếng mạch đập thường do điếc dẫn truyền làm tăng sự truyền tiếng đập của động mạch cảnh rõ hơn.