- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh tai mũi họng
- Bệnh lý vòi nhĩ: vòi eustachi
Bệnh lý vòi nhĩ: vòi eustachi
Trường hợp mở vòi nhĩ quá mức hiếm gặp và khó điều trị. Bệnh nhân thường phàn nàn là cảm giác đầy trong tai và tự thính, bệnh nhân nghe thấy mình thở hoặc nói.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Rối loạn chức năng vòi nhĩ
Ống nối tai giữa với vòm mũi họng gọi là vòi nhĩ hay vòi Eustachi. Vòi này tạo nên chức năng thông khí và dẫn lưu của thùng tai. Vòi nhĩ thường đóng, chỉ mở khi ngáp hoặc nuốt. Khi vòi nhĩ bị tắc, không khí ở tai giữa bị hấp thụ và tạo nên áp lực âm. Nguyên nhân hay gặp nhất gây rối loạn chức năng vòi tai là những bệnh gây phù nề biểu mô lót của vòi tai như nhiễm virus đường hô hấp trên, dị ứng.
Bệnh nhân thường có cảm giác đầy trong tai và giảm sức nghe từ nhẹ đến trung bình. Khi vòi tai chỉ bán tắc, bệnh nhân nuốt hoặc ngáp có thể gây nên tiếng nổ hoặc tiếng lách cách trong tai. Thăm khám thấy màng nhĩ bị co kéo và giảm di động khi dùng soi tai có bơm khí.
Khi nguyên nhận do virus thì bệnh thường thoáng qua, mất đi sau vài ngày hoặc vài tuần. Điều trị triệu chứng và làm giảm phù nề mũi (pseudoephedrin, 60mg uống 4 giờ/ lần. Oxymetazolin 0,05% xịt 8 - 12 giờ/lần) phối hợp với tự thông khí bấng cach nén hơi mạnh khi bịt mũi có thế íàm giảm nhanh triệu chứng.
Trong khi bị bệnh nên tránh đi máy bay, thay đổi độ cao đột ngột, íặn sâu dưới nước. Tự thổi tai không nên làm khi có nhiễm khuẩn vùng mũi, vì nghiệm pháp này có thể gây nên nhiễm khuẩn tai giữa. Những bệnh nhân dị ứng có thể điều trị giải mẫn cảm hoặc corticosteroid (beclomethason dipropionat xịt 2 lần mỗi bên mũi, 2 lần/ngày trong 2 - 6 tuần).
Trường hợp mở vòi nhĩ quá mức hiếm gặp và khó điều trị. Bệnh nhân thường phàn nàn là cảm giác đầy trong tai và tự thính, bệnh nhân nghe thấy mình thở hoặc nói.
Giãn rộng vòi nhĩ có thể gặp trong trường hợp sút cân nhanh chóng hoặc có thể không rõ nguyên nhân. Ngược lại với thiểu năng vòi nhĩ, áp lực của hõm tai thường tăng khi gắng sức và giảm khi bị nhiễm khuẩn đường hô hấp trên.
Mặc dù khám 'thực thể thường chỉ thấy bỉnh thường, nhưng đôi khi có thể thấy màng nhĩ di động theo nhịp thở khi thở mạnh. Điều trị bao gồm:
Tránh dùng thuốc tán huyết.
Đặt ống thông khí để làm giảm sự phồng ra phía ngoài của màng nhĩ khi phát âm.
Phẫu thuật làm hẹp vòi nhĩ (hiếm khi).
Viêm tai tiết dịch
Khi vòi nhĩ bị tắc nghẽn trong thời gian dài, áp lực âm sẽ làm tiết dịch. Tinh trạng này gọi là viêm tai tiết dịch; nó thường gặp ở trẻ em vì vòi nhĩ thường hẹp hơn và nằm ngang hơn ở người lớn. Tình trạng này ít gặp ở người lớn, thường gặp sau nhiễm khuẩn hô hấp trên hoặc chấn thương áp lực. Những người lớn mà có viêm tai tiết dịch một bên kéo dài thì phải nghĩ đến ung thư vòm họng.
Màng nhĩ trong viêm tai tiết dịch đục và không di động, đôi khi kèm theo những bóng khí trong tai giữa và nghe kém dẫn truyền.
Điều trị viêm tai giữa tiết dịch giống như trong rối loạn chức năng vòi nhĩ. Một số trường hợp dùng corticosteroid đợt ngắn (prednisolon 40 mg/ngày). Có thể thêm vào trong một số trường hợp viêm tai giữa tiết dịch kháng sinh đường uống (amoxicillin 250 mg ngày 3 lần trong 7 ngày) hoặc phối hợp cả hai cách. Vai trò của những thuốc này vẫn còn tranh cãi nhưng chúng vẫn có thể có một số tác dụng tốt. Khi các thuốc không có tác dụng sau vài tháng điều trị có thể đặt ống thông khí qua màng nhĩ để tăng lại sức nghe và giảm bớt cảm giác đầy tai.
Chấn thương áp lực
Những người có rối loạn chức năng vòi nhĩ do hẹp bẩm sinh hoặc mắc phải, do phù niêm mạc không thể cân bằng được áp lực của tai giữa khi đi máy bay, thay đổi độ cao đọt ngột, nhảy cầu. Tình trạng này thường gặp trong khi máy bay hạ cảnh vì áp lực âm trong tai giữa làm xẹp và tắc vòi nhĩ. Có nhiều biện pháp có tác dụng làm tăng chức năng vòi nhĩ và tránh chấn thương tai do áp lực. Nên khuyên bệnh nhân nuốt, ngáp và tự thông khí vòi nhĩ khi hạ cánh. Thuốc chống phù nề (pseudoephedrin 30 - 60mg) cần uống vài giờ trước khi tới nơi để thuốc có tác dụng tối đa khi máy bay hạ cánh. Thuốc chống phù nề tại chỗ như phenylephrỉn 1% được xịt mũí 1 giờ trước khi hạ cánh. Điều quan trọng là những người nhạy cảm không được ngủ khi máy bay hạ cánh vì khi thức dậy sẽ đau tai dữ dội và có áp lực âm tính trong tai rõ rệt do xẹp vòi nhĩ.
Điều trị áp lực âm cấp tính trong tai giữa cơ bản là giảm phù nề và tự thông khí voi nhĩ. Mở màng nhĩ có thể làm giảm đau tai và nghe kém. Những người bị chấn thương âm tái phát mà phải đi máy bay có thể phải đặt ống thông khí.
Nhảy cầu gây chấn thương áp lực mạnh hơn đi máy bay. Bệnh thường xuất hiện khi lặn xuống, đau tai xuất hiện trong 15 feet đầu nếu sự thông khí của hõm tai qua vòi nhĩ không được thực hiện. Ngược lại phải xuống từ từ và tạo ra sự cân bằng để tránh bị áp lực âm cao trong hòm tai có thể gây chảy máu hoặc dò nội dịch. Hơn nữa cửa sổ tròn và cửa sổ bầu dục bị rách gây nên điếc tiếp nhận và chóng mặt cấp. Nôn do rối loạn chức năng mê nhĩ cấp tính có thể rất nguy hiểm trong khi đang ở dưới nước. Điếc tiếp nhận hoặc chóng mặt trong lúc ngoi lên khi nhảy xuống quá sâu có thể là triệu chứng đầu hoặc triệu chứng duy trì của bệnh giảm áp. Sự tái tăng áp ngay lập tức sẽ đưa những bóng khí trong mạch máu thành dịch và được phục hồi lại các vi mạch tai trong. Dặn dò bệnh nhân không được nhảy cầu khi có nhiễm khuẩn hô hấp trên hoặc dị ứng mũi. Thủng màng nhĩ là một chống chỉ định tuyệt đối với lặn sâu vì bệnh nhân sẽ bị mất thăng bằng do kích thích nhiệt đối với ống bán khuyên, có thể chóng mặt, mất định hướng và thậm chí nôn mửa.
Cuối cùng, những bệnh nhân chỉ còn 1 tai nghe được thì không nên lặn vì những yếu tố nguy cơ cao đối với chấn thương tai còn lại.
Bài viết cùng chuyên mục
Các nhiễm khuẩn vùng cổ sâu
Nền tảng của điều trị bao gồm bảo đảm thông suốt đường thở, tiêm truyền kháng sinh và chích rạch dẫn lưu đường thở có thể được bảo đảm bằng phương pháp đặt nội khí quản hoặc mở khí quản.
Các biểu hiện ở tai của bệnh AIDS
Các bệnh nhân AIDS thường phàn nàn có ảnh hưởng tới tai trong, nghe kém tiếp nhận thường gặp và một số trưồng hợp do nhiễm virus hệ thần kinh trung ương.
Chấn thương mũi
Nghĩ tới gãy xương khi sờ thấy lạo xạo hoặc thấy những mảnh xương di động. Chảy máu và đau thường gặp, cũng như những tụ máu ở phần mềm (dấu hiệu mắt đen).
Viêm xoang cấp
Viêm xoang xảy ra khi không dẫn lưu được mủ ứ đọng trong xoang. Các bệnh làm phù nề niêm mạc như viêm mũi do virus, viêm mũi dị ứng là những nguyên nhân thường gặp.
Đau tai: chẩn đoán và điều trị
Đau tai dữ dội mà không tương ứng với phát hiện thực thể có thể do virus zona ở tai, đặc biệt khi có những phổng nước ở ống tai hoặc hố thuyền.
Nghe kém tiếp nhận: bệnh lý tai trong
Những chất gây nhiễm độc tai có thể tác dụng lên cả hệ thính giác và tiền đình. Những thuốc gây nhiễm độc tai hay gặp nhất là salycylat, aminoglycosid, thuốc lợi tiểu.
Các khối u lành tính trong mũi
Ù nhú đảo ngược là u lành tính thường xuất phát ở thành bên của mũi, biểu hiện bằng tắc mũi một bên, đôi khi chảy máu.
Viêm cấp và mạn tuyến nước bọt do loạn sản
Sinh bệnh học là sự tắc nghẽn các ống tuyến thường gây ra bởi sự cô đặc dịch nhầy gây bít tắc, tiếp theo sau là ứ nước bọt và nhiễm khuẩn thứ phát.
Biểu hiện của nhiễm HIV tai mũi họng
Sự tăng lên của u carcinom tế bào vẩy cũng thấy ở nhóm người đồng tính luyến ái, có lẽ cũng liên quan đến nhiễm HIV.
Dị vật khí phế quản, thực quản
Dị vật khí phế quản nên được lấy ra dưới gây mê toàn thân tiến hành bởi người có kinh nghiệm đặt ống nội khí quản phối hợp với người gây mê có kinh nghiệm.
Viêm họng và viêm amidan
Những căn nguyên phổ biến khác ngoài nhóm liên cầu β tan huyết nhóm A cần chuẩn đoán phân biệt đau họng do virus, Neisseria gonorrhoeae, Mycoplasma và Chlamydia Trachomatis.
Chảy máu mũi
Hầu hết các trường hợp chảy máu mũi trước có thể cầm bằng ép trực tiếp vào điểm chảy máu. Cánh mũi phải được ép chặt ít nhất 10 phút.
Liệt dây thanh âm
Liệt dây thanh âm hai bên thường gây nên thở rít. Nếu khởi phát đột ngột, thở rít cả thì thở ra và hít vào, gây nên hẹp đường thở thì phải mở giáp móng cấp cứu.
Ù tai: bệnh lý tai trong
Ù tai theo nhịp mạch phải được phân biệt với ù tai âm. Tiếng mạch đập thường do điếc dẫn truyền làm tăng sự truyền tiếng đập của động mạch cảnh rõ hơn.
Bệnh u hạt Wegener, bệnh tăng tế bào lưới đa hình thái, bệnh sarcoid
Bệnh sarcoid cũng thường biểu hiện ở xoang và triệu chứng lâm sàng cũng tương tự. Sinh thiết thấy tổ chức hạt không hoại tử.
Chóng mặt do bệnh lý tai trong
Khám thực thể tối thiểu cho bệnh nhân chóng mặt gồm test Romberg, đánh giá dáng đi, quan sát có rung giật nhãn cầu hay không.
Bệnh lý vành tai
Cũng tương tự, những trường hợp bị viêm mô tế bào vành tai phải được điều trị ngay đề phòng sự tiến triển tới viêm màng sụn và các hậu quả biến dạng của nó.
Bệnh lý tai giữa
Các loại vi khuẩn hay gặp ở cả người lớn và trẻ em là Streptococcus Pneumonia, Hemophilus Influenzae và S. pyogenes.
Viêm lưỡi và đau lưỡi
Đôi khi không tìm được nguyên nhân gây đau lưỡi. Bệnh quanh răng không phải là yếu tố gây đau lưỡi.
Tổn thương loét trong miệng
Viêm lợi miệng do herpes là thường gặp, bệnh nhẹ, diễn biến trong thời gian ngắn và không cần can thiệp gì ở hầu hết bệnh nhân là người lớn.
Bệnh nấm mucor mũi nội sọ
Triệu chứng khởi đầu có thể giống như viêm xoang nhiễm khuẩn, mặc dầu triệu chứng đau mặt thường dữ dội hơn. Khám niêm mạc mũi cố vẻ biểu hiện màu đen, và hoại tử chính ở cuốn dưới.
Cắt amidan
Hiện nay thấy rõ ràng là các bệnh nhân phẫu thuật cắt amidan ngoại trú thường an an toàn nếu theo dõi trong thời gian 6 giờ mà không có biến có gì.
Các khối u ác tính vùng mũi họng và xoang
Ung thư biểu mô lát hay gặp nhất ở vùng giải phẫu này, đặc biệt hay gặp ở vùng mũi họng, ở đây nó thường hay gây tắc vòi nhĩ và viêm tai tiết dịch.
Các rối loạn thanh quản hay gặp
Nếu người lớn bị viêm thanh thiệt được phát hiện sớm có thể tránh được đặt ống nội khí quản, trong những trường hợp này theo dõi nồng độ bão hòa oxy huyết cầu tố bằng máy đo oxy.
Rối loạn chức năng khứu giác
Mất, giảm, biến dạng mùi hoặc vị giác được thông báo ở những bệnh nhân có rối loạn nội tiết, dinh dưỡng và thần kinh.