- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị các bệnh nhiễm trùng do nấm
- Các nhiễm trùng do Penicillium marneffei
Các nhiễm trùng do Penicillium marneffei
Penicillium marneffei là loại nấm lưỡng hình, lưu hành ở Đông Nam Á, gây nhiễm trùng hệ thống ở cả người khoẻ mạnh và người bị rối loạn miên dịch.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Các nhiễm trùng do nấm được coi là có vị trí quan trọng và ngày càng gia tăng do việc sử dụng rộng rãi các kháng sinh phổ rộng và số lượng bệnh nhân suy giảm miêm dịch tăng lên. Một số tác nhân gậy bệnh (cryptoccus, Candida, Pneumocystis, fusarium) không bao giờ gây bệnh nặng ở những người bình thường. Các nấm gây bệnh lưu hành khác (histoplasma, coccidioides Paracoccidioides) là nguyên nhân gây bệnh thường gặp ở những người bình thường, nhưng nó có xu hướng gây bệnh nặng ở những người rối loạn miễn dịch.
Penicillium marneffei là loại nấm lưỡng hình, lưu hành ở Đông Nam Á, gây nhiễm trùng hệ thống ở cả người khoẻ mạnh và người bị rối loạn miên dịch. Ngày càng có nhiều báo cáo về các bệnh nhân AIDS tiến triển xuất hiện các nhiễm trùng lan toả; bao gồm những người du lịch từ vùng Đông Nam Á trở về. Biểu hiện lâm sàng gồm có sốt, nổi ban dạng dát toàn thân, hạch toàn thân, ho và ỉa chảy. Vị trí tốt nhất để phân lập nấm là da, máu, tủy xương, đường hô hấp và các hạch lympho. Các bệnh nhân bị nhiễm trùng nhẹ đến vừa có thể điều trị bằng itraconazol 400 mg/ngày, trong 8 tuần. Amphotericin B, 0,5 - 0,7 mg/kg/ngày được lựa chọn để điều trị các bệnh nặng. Tỷ lệ tái phát sau điều trị thành công là 30%, vì vậy cần điều trị duy trì bằng itraconazol 200 - 400 mg/ngày.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh nấm Aspergillus fumigatus
Bệnh nấm Aspergillus xâm nhiễm và đe doạ tính mạng hay xẩy ra nhất ở các bệnh nhân suy giảm miễm dịch trầm trọng, đặc biệt là những bệnh nhân giảm bạch cầu nặng kéo dài.
Bệnh nấm Sporotrichum
Bệnh nấm Sporotrichum lan toả thường hiếm thấy ở những vật chủ có khả năng miễn dịch nhưng có thể xuất hiện các triệu chứng ở phổi, xương, khớp.
Bệnh nấm Cryptococcus neoformans
Bệnh nấm Crytococcus là do nấm Cryptococcus neoformans gây ra, đây là một loại nấm mốc có vỏ bọc và được tìm thấy ở khắp mọi nơi trên thế giới, trong đất và trong phân khô của chim bồ câu.
Bệnh nấm Coccidioides immitis
Bệnh nấm coccidioides immitis có thể được gợi ý tới trong chẩn đoán của một bệnh chưa biết rõ ở một bệnh nhân đã từng sống hoặc đi tới vùng dịch tễ.
Bệnh học bệnh nấm Candida
Điều quan trọng cần nhớ là các chủng không phải là albicans của họ Candida thường kháng lại với kháng sinh thuộc nhóm imidazol như fluconazol.
Bệnh phổi do nấm Pneumocystis carinii
Nói chung hiện nay người ta coi Pneumocystis carinii là một loại nấm. Nó có thể tìm thấy trong phổi của những vật nuôi khác nhau ở trong nhà, ở động vật có vú hoang dại và phân bố trên khắp thế giới ở người.
Bệnh nấm Histoplasma
Hầu hết các trường hợp nhiễm histoplasma đều không có triệu chứng hoặc triệu chứng ít và vì thế nên không được phát hiện.
Bệnh nấm Blastomyces vùng nam mỹ
Nhiễm trùng nấm Paracoccidioides brasiliesis chỉ tìm thấy ở những bệnh nhân sống ở Nam và Trung Mỹ hoặc Mexico, vì có một giai đoạn dài không có dấu hiệu đặc trưng.
Bệnh nấm Blastomyces
Bệnh nấm blastomyces thường xẩy ra ở nam giớii và ở cấc vùng địa lý giới hạn thuộc trung tâm phía nam và giữa tây nước Mỹ và Canada. Một số ít trường hợp được thấy ở Mexico và châu Phi.
Một số dạng nấm gây nhiễm trùng cơ hội
Trong các tổ chức của bệnh nhân bị bệnh nấm sợi đen, nấm có mầu đen hoặc mầu nâu nhạt, tế bào nấm đen hoặc cả hai.
Nhiễm nấm da kéo dài
Loại nấm này được thấy có mầu nâu, thành dày, hình cầu, đôi khi tế bào có vách ngăn và có mủ ở trong. Khi nuôi cấy lập lại dạng này sẽ giúp quyết định được chủng nấm.
Bệnh nấm Mucor
Chẩn đoán nên được đặt ra ở các bệnh nhân đái tháo đường có nhiễm toan với tổn thương hoại tử đen ở mũi hoặc ở xoang hoặc các bất thường của hệ thần kinh sọ não mới xuất hiện.
U nấm
Tất cả các thuốc khác có thể nên dùng trong nhiều tháng và tiếp tục dùng trong vài tháng sau khi triệu chứng lâm sàng được cải thiện để dự phòng tái phát. Phẫu thuật mở rộng giúp cho sự liền sẹo.