- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị các bệnh nhiễm trùng do nấm
- Bệnh nấm Histoplasma
Bệnh nấm Histoplasma
Hầu hết các trường hợp nhiễm histoplasma đều không có triệu chứng hoặc triệu chứng ít và vì thế nên không được phát hiện.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Các nhiễm trùng do nấm được coi là có vị trí quan trọng và ngày càng gia tăng do việc sử dụng rộng rãi các kháng sinh phổ rộng và số lượng bệnh nhân suy giảm miêm dịch tăng lên. Một số tác nhân gậy bệnh (cryptoccus, Candida, Pneumocystis, fusarium) không bao giờ gây bệnh nặng ở những người bình thường. Các nấm gây bệnh lưu hành khác (histoplasma, coccidioides Paracoccidioides) là nguyên nhân gây bệnh thường gặp ở những người bình thường, nhưng nó có xu hướng gây bệnh nặng ở những người rối loạn miễn dịch.
Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán
Về mặt dịch tễ học có liên quan với dãi của chim và dơi, thông thường là ở dọc theo các triền sống.
Hầu hết bệnh nhân không có triệu chứng, các bệnh lý về hô hấp là biểu hiện lâm sàng thường gặp.
Hiếm gặp bệnh nhân với chức năng miễn dịch bình thường mà phát triển thành bệnh lan toả, với gan lách to, hạch to và loét miệng.
Bệnh phát triển đặc biệt ở bệnh nhân AIDS hoặc ở các giai đoạn suy giảm miễn dịch với tiên lượng tồi.
Ít khi chẩn đoán bằng test da và huyết thanh; sinh thiết tổ chức bị tổn thương cùng với nuôi cấy, kháng nguyên polysaccharid nước tiểu thường có tác dụng nhất
Nhận định chung
Bệnh nấm histoplasma gây ra bởi Histoplasma capsùỉatum, một loại nấm có hai hình thái, có thể phân lập từ đất ở các vùng dịch tễ (Trung và Đông Mỹ, Đông Canada, Mexico, Trung Mỹ, Nam Mỹ, Châu Phi và Đông Nam Á). Nhiễm trùng có lẽ do hít phải các chất thải của chim. Các chất này sẽ trở thành các tế bào mầm nhỏ và bị tiêu bởi các tế bào thực bào ở phổi. Sinh vật tăng sinh và theo đường máu tới các cơ quan khác.
Dấu hiệu và triệu chứng
Hầu hết các trường hợp nhiễm histoplasma đều không có triệu chứng hoặc triệu chứng ít và vì thế nên không được phát hiện. Các nhiễm trùng trong quá khứ được nhận ra bằng các test da dương tính với histoplasmin và đôi khi sự lắng đọng của calci ở phổi và lách đươc phát hiện khi chụp X quang. Triệu chứng và dấu hiệu ở phổi thường không có ngay cả khi bệnh nhân có những, vùng vôi hóa trên phim X quang phổi, Nhiễm trùng có thể biểu hiện, giống như bệnh cúm ở mức độ chẩn đoán như viêm phối không điển hình, thường kéo dặi 1- 4 ngày. Những bệnh nhân này có biểu hiện sốt, ho và đaụ ngực ở mức độ vừa kéo dài 5 - 15 ngày, Khám lâm sàng thường không thấy gì. Phim chụp X quang trong giai đoạn cấp thường thay đổi và không đặc hiệu. Các nhiễm trùng có biểu hiện rõ về mặt lâm sàng xảy ra dưới nhiều dạng khác nhau:
Bệnh nấm histoplasma cấp thường xẩy ra trong các vụ dịch. Đó là một bệnh nặng biểu hiện bởi sự suy kiệt rõ, sốt, và liên quan với một số biểu hiện ở phổi ngay cả khi phim chụp X quang thấy có viêm phổi. Bệnh có thể kéo dài từ một tuần tới 6 tháng nhưng không bao giờ gây tử vong.
Bệnh nấm histoplasma tiến triển lan toả thường gây tử vong trong vòng 6 tuần hoặc ít hơn. Triệu chứng thường gặp bao gồm sốt, khó thở, ho, sụt cân, suy kiệt. ía chảy thường gặp ở trẻ em. Có thể loét niêm mạc họng, thanh quản. Gan và lách thường to ra và tất cả các cơ quan khác của cơ thể đều bị ảnh hưởng, đặc biệt là tuyến thượng thận.
Bệnh nấm histoplasma phổi mạn tính tiến triển thường thấy ở người già với bệnh phổi mạn tính tắc nghẽn và ở bệnh nhân bị rối loạn miễn dịch, ở mức độ trung bình. Hai phổi có những biến đổi mạn tính tiến triển, thường có hang ở đỉnh phổi.
Bệnh lan toả ở những người bị rối loạn miễn dịch nặng, thường có phản ứng ổ nhiễm trùng trước đó hoặc có thể phản ánh là một nhiễm trùng cấp tính. Dạng này thường thấy ở những bệnh nhân bị nhiễm HIV tiềm tàng và có đặc trưng là sốt và nhiều cơ quan của cơ thể cùng bị. Chụp X quang có thể thấy tổn thương dạng kẽ. Biểu hiện có thể tối cấp và tử vong rất nhanh nếu không được điều trị ngay.
Các dấu hiệu cận lâm sàng
Hầu hết các bệnh nhân bị bệnh phổi tiến triển thường có biểu hiện thiếu máu như của một bệnh mạn tính. Biểu hiện tổn thương tủy xương có thể trội hơn trong thể lan toả với giảm cả ba dòng. Thường có tăng phosphatase kiềm, LHD và ferritin.
Trường hợp bệnh ở phổi thì cấy mủ hiếm khi dương tính ngoại trừ trong các bệnh mạn tính; ngược lại cấy máu vả cấy tủy xương từ những bệnh nhân có rối loạn miễn dịch với bệnh lan toả cấp tính thường dương tính khoảng trên 80%. Nghiệm pháp kháng nguyên trong nước tiểu nhậy cảm trên 90 % số trường hợp đối với các nhiễm trùng lan toả ở bệnh nhân AIDS và có thể sử dụng để chẩn đoán tái phát. Độ nhậy của phương pháp miễn dịch khuếch tán khoảng 50 % ở bệnh nấm histoplasma phổi cáp tính và phương pháp cố định bổ thể dương tính khoảng 80 % số trường hợp. Kết qua phối hợp hai phương pháp ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch là khoảng 80%.
Điều trị
Đối với cấc bệnh nhiễm trủng tại chỗ tiến triển và bệnh toàn thân không có biểu hiện màng não với mức độ vừa đến nặng ở những bệnh nhân có khả năng miễn dịch hoặc rối loạn miễn dịch, itraconazol 200 - 400 mg/ngày, đường uống là biện pháp được lựa chọn với tỷ lệ đáp ứng chung khoảng 80 %. Thời gian điều trị thay đổi từ vài tuần đến vài tháng phụ thuộc vào mức âộ bệnh. Amphotericin B được dùng đối với các bệnh nhân không thể dùng bằng đường uống, thất bại với itraconazol, viêm màng não, hoặc bệnh toàn thân nặng ở người bị rối loạn miễn dịch. Có thể cần thiết phải dùng trên 2,5g tổng liều ở hai trường hợp cuối. Các bệnh nhân có bệnh nấm histoplasma liên quan đến AIDS đòi hỏi phải được điều trị ức chế suốt đời với itraconazol 200 - 400 mg/ngày, đường uống.
Bài viết cùng chuyên mục
U nấm
Tất cả các thuốc khác có thể nên dùng trong nhiều tháng và tiếp tục dùng trong vài tháng sau khi triệu chứng lâm sàng được cải thiện để dự phòng tái phát. Phẫu thuật mở rộng giúp cho sự liền sẹo.
Bệnh học bệnh nấm Candida
Điều quan trọng cần nhớ là các chủng không phải là albicans của họ Candida thường kháng lại với kháng sinh thuộc nhóm imidazol như fluconazol.
Bệnh nấm Coccidioides immitis
Bệnh nấm coccidioides immitis có thể được gợi ý tới trong chẩn đoán của một bệnh chưa biết rõ ở một bệnh nhân đã từng sống hoặc đi tới vùng dịch tễ.
Bệnh nấm Blastomyces
Bệnh nấm blastomyces thường xẩy ra ở nam giớii và ở cấc vùng địa lý giới hạn thuộc trung tâm phía nam và giữa tây nước Mỹ và Canada. Một số ít trường hợp được thấy ở Mexico và châu Phi.
Bệnh nấm Sporotrichum
Bệnh nấm Sporotrichum lan toả thường hiếm thấy ở những vật chủ có khả năng miễn dịch nhưng có thể xuất hiện các triệu chứng ở phổi, xương, khớp.
Bệnh phổi do nấm Pneumocystis carinii
Nói chung hiện nay người ta coi Pneumocystis carinii là một loại nấm. Nó có thể tìm thấy trong phổi của những vật nuôi khác nhau ở trong nhà, ở động vật có vú hoang dại và phân bố trên khắp thế giới ở người.
Một số dạng nấm gây nhiễm trùng cơ hội
Trong các tổ chức của bệnh nhân bị bệnh nấm sợi đen, nấm có mầu đen hoặc mầu nâu nhạt, tế bào nấm đen hoặc cả hai.
Bệnh nấm Aspergillus fumigatus
Bệnh nấm Aspergillus xâm nhiễm và đe doạ tính mạng hay xẩy ra nhất ở các bệnh nhân suy giảm miễm dịch trầm trọng, đặc biệt là những bệnh nhân giảm bạch cầu nặng kéo dài.
Bệnh nấm Mucor
Chẩn đoán nên được đặt ra ở các bệnh nhân đái tháo đường có nhiễm toan với tổn thương hoại tử đen ở mũi hoặc ở xoang hoặc các bất thường của hệ thần kinh sọ não mới xuất hiện.
Bệnh nấm Cryptococcus neoformans
Bệnh nấm Crytococcus là do nấm Cryptococcus neoformans gây ra, đây là một loại nấm mốc có vỏ bọc và được tìm thấy ở khắp mọi nơi trên thế giới, trong đất và trong phân khô của chim bồ câu.
Bệnh nấm Blastomyces vùng nam mỹ
Nhiễm trùng nấm Paracoccidioides brasiliesis chỉ tìm thấy ở những bệnh nhân sống ở Nam và Trung Mỹ hoặc Mexico, vì có một giai đoạn dài không có dấu hiệu đặc trưng.
Nhiễm nấm da kéo dài
Loại nấm này được thấy có mầu nâu, thành dày, hình cầu, đôi khi tế bào có vách ngăn và có mủ ở trong. Khi nuôi cấy lập lại dạng này sẽ giúp quyết định được chủng nấm.
Các nhiễm trùng do Penicillium marneffei
Penicillium marneffei là loại nấm lưỡng hình, lưu hành ở Đông Nam Á, gây nhiễm trùng hệ thống ở cả người khoẻ mạnh và người bị rối loạn miên dịch.