- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh máu
- Bệnh bạch cầu thể lympho mạn tính
Bệnh bạch cầu thể lympho mạn tính
Những bệnh tăng sinh lympho khác như macroglobulin máu Waldenstrom, bệnh bạch cầu tế bào tóc hay u lympho ở giai đoạn bệnh bạch cầu được phân biệt trên cơ sở hình thái các lympho bào lưu hành và tủy xương.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những yếu tố cần thiết cho chẩn đoán
Tăng lympho bào trên 15.000/µL.
Diện mạo "trưởng thành" của các lympho bào.
Nhận định chung
Đây là một bệnh ác tính của clon lympho bào B (hiếm khi lympho bào T). Bệnh thường không đau với sự tích tụ dần dần một cách chậm chạp các lympho bào đời sống dài, những tế bào này có khả năng miễn dịch và đáp ứng yếu ớt với kích thích kháng nguyên.
Bệnh được biểu hiện lâm sàng bằng tình trạng giảm miễn dịch, tổn thương tủy xương và thâm nhiễm lympho bào ở cơ quan. Giảm miễn dịch, tổn thương tủy xương và thâm nhiễm,cơ quan coi như là gần hết những biểu hiện lâm sàng. Suy giảm miễn dịch cũng có liên quan đến việc sản xuất kháng thể không đầy đủ bởi các tế bào B bất thường. Khi bệnh đã tiến triển, có gây tổn hại do sự thâm nhiễm trực tiếp tổ chức.
Triệu chứng và dấu hiệu
Là bệnh của người lớn tuổi với 90% các trường hợp xẩy ra sau 50 tuổi và tuổi trung bình là 65. Nhiều tình cờ phát hiện bệnh khi tăng lympho bào. Một số khác thấy mệt hay hạch to. Thăm khám bệnh nhân có hạch to và ở một nửa có gan hay lách to.
Một hệ thống phân giai đoạn có tính chất tiên lượng được trình bày như sau:
Giai đoạn 0: chỉ có tăng lympho bào.
Giai đoạn 1: tăng lympho bào + hạch to.
Giai đoạn 2: các phủ tạng sưng to.
Giai đoạn 3: thiếu máu.
Giai đoạn 4: giảm tiểu cầu.
Bệnh thường tiến triển không đau nhưng đôi khi biểu hiện như một bệnh tiến triển nhanh. Những bệnh nhân này thường có những lympho bào ít trưởng thành hơn, to hơn và được gọi là bệnh bạch cầu "tiền lympho bào". Trong 5 - 10% các trường hợp bệnh có thể bị biến chứng thiếu máu hụyết tán tự miễn hay giảm tiểu cầu tự miễn. Gần 5% các trường hợp trong khi bệnh hệ thộng vẫn ổn định, có một hạch chuyển thành một u lympho têz bào lớn xâm hại (hội chứng Richter).
Xét nghiệm
Dấu hiệu đặc trưng của bệnh bạch cầu mạn thể lympho bào là tăng lympho bào đơn thuần. Số lượng bạch cầu thường trên 20.000/ µL, có thể tăng rất cao. Thường 75 - 98% bặch cầu lưu hành là lympho bào. Lympho bào nhỏ, "trưởng thành" với chất nhiễm sắc nhân đậm đặc và về hình thái không thể phân biệt đối với lyrilpho bảo nhỏ bình thường. Hematocrit và số lượng tiểu cầu lúc này bình thường, Tủy xương bị thâm nhiễm khác nhau với các lympho bào nhỏ. Các tế bào ác tính biểu thị một cách yếu ớt các globulin miễn dịch bề mặt và tính chất đơn dòng của tế bào có thể được chứng minh bằng phát hiện một typ chuỗi nhẹ trên bề mặt. Phenotyp miễn dịch của bệnh là duy nhất trong đó nó biểu thị những dấu ấn dòng lympho bào T. Những tính chất ác tính tế bào B khác không biểu thị CD5.
Giảm gammaglobulin máu có trong một nửa các trường hợp và thương gặp hơn khi bệnh tiến triển. Trong một số hoàn cảnh, một số lượng nhỏ paraprotein IgM có trong huyết thanh. Những thay đổi bệnh lí trong hạch cũng giống như trong u lympho với lympho bào nhỏ lan tràn.
Chẩn đoán phân biệt
Một số ít hội chứng có thể nhầm với bệnh bạch cầu mạn thể lympho bào. Nhiễm virus gây tăng lympho bào biểu hiện là có sốt và có dấu hiệu lâm sàng khác. Những bệnh tăng sinh lympho khác như macroglobulin máu Waldenstrom, bệnh bạch cầu tế bào tóc hay u lympho ở giai đoạn bệnh bạch cầu được phân biệt trên cơ sở hình thái các lympho bào lưu hành và tủy xương.
Điều trị
Đa số các trường hợp bệnh bạch cầu mạn thể lympho bào không đau phát hiện sớm không cần đến điều trị đặc hiệu. Chi định của điều trị khi mệt tăng dần, hạch to gây khó chịu hay phát triển thiếu máu hoặc thiếu tiểu cầu. Những trường hợp này hoặc khi có triệu chứng tiến triển ở giai đóạn II hoặc bệnh ở giai đoạn III / IV. Điều trị trước tiên gồm chlorambucil và prednison. Thường dùng chlorambucil 0,6- 1 mg/kg phối hợp với prednison 4 ngày mỗi ba tuần. Những biến chứng như thiếu máu huyết tán tự miễn hay giảm tiểu cầu tự miễn có thể điều trị bằng predhison liều cao; Nhiều khi cần cắt lách để kiểm soát bệnh. Fludarabin là một thuốc mới đầy hứa hẹn thường được dùng điều trị bệnh kháng các loại thuốc khác. Dù rằng fludarahin tốt hơn so với chlorambucil trong điều trị đầu tiên nhưng hiện nay no vẫn cần được đánh giá. Tác dụng phụ chậm của fludarabin còn cần xác định. Một thuốc mới đầy hứa hẹn khác là cladribin (2. chlorodeoxyadennosine; CoA).
Tiên lượng
Sống thêm trung bình khoảng 6 năm và 25% bệnh nhân sống trên 10 năm. Bệnh nhân ở giại đoạn 0 hay giai đoạn 1 có thời gian sống thêm trung bình là 10 năm, Mặc dù có chẩn đoán đáng sợ là bị bệnh bạch cầu nhưng họ vẫn sống một cuộc sống bình thường trong nhiều năm, Bệnh nhan ở giai đoạn III hay IV chỉ sống thêm trung bình dưới 2 năm. Bệnh bạch cầu thể lympho bào được điều trị một cách đối phó. Điều trị tích cực cho bệnh nhân dạng bị bệnh tiến triển chỉ là giúp ích một cách ngắn ngủi.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh lý đông máu trong bệnh gan
Bệnh lý đông máu do bệnh gan gây ra những bất thường rõ rệt hơn về thời gian prothrombin và thời gian thromboplastin một phần. Rất sớm trong tiến trình bệnh gan, chỉ có thời gian prothrombin bị tổn thương.
Hemophila B: bệnh ưa chảy máu B
Hemophilia yếu tố IX được điều trị bằng yếu tố IX đâm đặc. Yếu tố VIII đậm đặc là không có hiệu quả trong thể bệnh hemophilia này, do vậy cần phải phân biệt giữa hai thể bệnh.
Chất chống đông do Luput
Một cách trái khoáy, yếu tố chống đông do luput thường có liên quan với nguy cơ tăng bị huyết khối và sẩy thai tự phát liên tiếp.
Các thể bệnh Thalassemia
Hội chứng α thalassemia thường gặp, trước hết ở những người từ Đông Nam chẩu Ấ, Trung Quốc, ít gặp hơn ở những người da đen bình thường.
Bệnh đa hồng cầu tiên phát
Nếu khối hồng cầu tăng, phải xác định tăng này là tiên phát hay thứ phát. Đa hồng cầu tiên phát là một rối loạn của tủy xương đặc trưng bằng sự sản xuất quá mức tự thân của các tế bào dòng hồng cầu.
Bệnh đa u tủy
U tủy là một bệnh của người lớn tuổi (tuổi trung bình lúc bị bệnh là 60). Đa số phàn nàn vì những triệu chứng liên quan đến thiếu máu, đau xương và nhiễm khuẩn. Phần nhiều là đau xương sống, xương sườn.
Bệnh Hodgkin
Đa số bệnh nhân đến vì một khối không đau, thường là ở cổ, Những dấu hiệu khác yêu cầu sự chú ý về y tế là các triệu chứng thể trạng như sốt
Rối loạn chất lượng tiểu cầu mắc phải
Tất cả rối loạn tặng sinh tủy đều có thể gây ra những bất thường chức năng tiểu cầu. Có một số những bất thường hóa sinh trong những tiểu cầu này nhưng nguyên nhân của khuynh hướng chẩy máu thì không rõ.
Bệnh bạch cầu và các rối loạn tăng sinh tủy
Tuy nhiên, những rối loạn này được xếp nhóm cùng nhau vì bệnh có thể tiến triển từ thể này thành thể khác và vì những bệnh lai tạo được xem xét một cách chung
Thiếu máu huyết tán
Thiếu máu huyết tán là một nhóm bệnh trong đó đời sống hồng cầu bị giảm ngắn, hoặc từng thời kì hoặc liên tục. Tủy xương có khả năng tăng sản xuất hồng cầu lên gấp 8 lần để đáp ứng với đời sống hồng cầu bị giảm.
Ban xuất huyết giảm tiểu cầu tự phát
Ban xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn là một bệnh tự miễn trong đó một tự kháng thể IgG được tạo thành gắn vào tiểu cầu. Còn chưa rõ là kháng nguyên nào trên bề mặt tiểu cầu tham gia vào.
Thiếu máu huyết tán vi mạch và huyết tán liên quan nhiễm khuẩn
Thiếu máu huyết tán vi mạch là một nhóm bệnh trong đó xẩy ra sự phân mảnh hồng cầu. Thiếu máu ở nội mạch, gây hemoglobin huyết, hemoglobin niệu và trong những trường hợp nặng methalbumin huyết.
Xơ tủy
Xơ tủy phát triển ở những người lớn trên 50 tuổi và thường bát đầu âm thầm. Bệnh nhân rất hay thấy yếu mệt do thiếu máu hay cảm giác đầy bụng do lách to. Biểu hiện ít gặp là chảy máu và đau xương.
Bệnh hồng cầu hình thoi di truyền
Trong đa số thể bệnh hồng cầu hỉnh thoi di truyền, rối loạn huyết tán nhẹ được bù trừ tốt và chỉ thiếu máu ít hoặc không có. Tuy nhiên, những thể nặng hơn có thể gây thiếu máu, lách to và sỏi sắc tố mật.
Thiếu acid folic
Acid folic là một thuật ngữ chung dùng cho acid pteroylmonoglutamic. Ở dạng như tetrahydrofolat, nó được dùng như một chất trung gian quan trọng của nhiều phản ứng.
Thiếu máu hồng cầu hình liềm và các hội chứng liên quan
Mức độ hóa liềm chịu ảnh hưởng của một số những yếu tố, quan trọng hơn cả là nồng độ hemoglobin S trong từng hồng cầu. Hồng cầu bị mất nước làm cho nó nhanh chóng dễ bị tổn thương dẫn đến liềm hóa.
Bệnh học thiếu máu trong bệnh mạn tính
Việc chẩn đoán nhầm thiếu máu thiếu sát có thể xảy ra nếu hiện tượng tăng quá mức được thay thế bằng sắt huyết thanh giảm.
Kháng thể yếu tố VIII mắc phải
Điều trị chọn lọc là cyclophosphamid thường phối hợp với prednison. Trong thời gian quá độ, việc thay đổi yếu tố VIII tái phạm có thể là cần thiết. Thay huyết tương để làm giảm trị giá chất ức chế có thể có ích.
Thiếu máu huyết tán tự miễn dịch
Gần một nửa các trường hợp thiếu máu huyết tán tự miễn dịch không rõ nguyên nhân. Bệnh có thể cũng gặp phối hợp với luput ban đỏ hệ thống, bệnh bạch cầu mạn tính thể lympho hay khối u lympho toàn thân.
Tình trạng tăng đông máu
Ung thư thường có nguy cơ tăng của cả huyết khối động mạch và tĩnh mạch. Trong một vài trường hợp, đông máu rải rác nội mạch mức độ thấp hình như cũng có trách nhiệm.
Bệnh Von Willebrand
Yếu tố von Willebrand được tổng hợp trong mẫu tiểu cầu và các tế bào nội mô lưu hành trong huyết tương như những đa chuỗi cỡ khố khác nhau. Chỉ những dạng đa chuỗi dài có chức năng trong việc trung gian dính bám tiểu cầu.
U lympho không Hodgkin
Bệnh nhân u lympho không đau thường có hạch to, đau và khu trú hoặc phát triển rộng. Các hạch bạch huyết to có thể ở sau phúc mạc, mạc treo và hố chậu.
Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối
Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối là một hội chứng ít gặp đặc trưng bởi bộ năm triệu chứng của thiếu máu huyết tán bệnh động mạch nhỏ, giảm tiểu cầu, những bất thường về thần kinh, sốt và những bất thường của thận.
Bệnh bạch cầu cấp
Thăm khám thấy bệnh nhân xanh xao, xuất huyết dưới da, ban xuất huyết, và nhiều dấu hiệu khác của nhiễm khuẩn, viêm miệng, và phì đại lợi có thể thấy ở những bệnh nhân bị bệnh bạch cầu thế bạch cầu đơn nhân.
Bất sản hồng cầu thuần túy
Bất sản hồng cầu thuần tuý mắc phải ở người trưởng thành là cực kỳ hiếm. Đây có vẻ như là một bệnh tự miễn dịch trong đó một kháng thể IgG đặc biệt đánh vào những tiền thân dòng hồng cầu.