- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh máu
- Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối
Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối
Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối là một hội chứng ít gặp đặc trưng bởi bộ năm triệu chứng của thiếu máu huyết tán bệnh động mạch nhỏ, giảm tiểu cầu, những bất thường về thần kinh, sốt và những bất thường của thận.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Rối loạn cầm máu có thể do những thiểu sót hoặc về số lượng chức năng tiểu cầu hoặc do vấn đề tạo thành các cục fibrin (đông máu). Chảy máu do những rối loạn tiểu cầu điển hình là chảy máu niêm mạc hay da. Những vấn đề thường gặp là chảy máu cam, chảy máu lợi, rong kinh, chảy máu dạ dày ruột, bầm máu và chấm xuất huyết. Chấm xuất huyết hầu như tuyệt đối gặp trong những hoàn cảnh giảm tiểu cầu và không có rối loạn chức năng tiểu cầu. Chảy máu do bệnh lý đông máu có thể xuất hiện ở các u máu trong cơ sâu cũng như chảy máu ở da. Chảy máu khớp tự phát chỉ thấy ở bệnh ưa chảy máu nặng.
Những yếu tố cần thiết cho chẩn đoán
Thiếu máu tan huyết bệnh lý động mạch nhỏ.
Giảm tiểu cầu.
Những bất thường thần kinh.
Những bất thường thận.
Sốt không có nhiễm khuẩn.
Các test đông máu không bình thường.
LDH huyết thanh tăng.
Nhận định chung
Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối là một hội chứng ít gặp đặc trưng bởi bộ năm triệu chứng của thiếu máu huyết tán bệnh động mạch nhỏ, giảm tiểu cầu, những bất thường về thần kinh, sốt và những bất thường của thận. Nguyên nhân chưa rõ. Một yếu tố ngưng kết tiểu cầu mới được phân lập gần đây trong huyết tương của những bệnh nhân này. Vai trò của chúng trong bệnh sinh vẫn còn trái ngược nhau.
Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối gặp trước hết ở những người trẻ 20 - 50 và nữ gặp nhiều hơn một ít. Hội chứng thường tăng lên khi dùng estrogen hay khi có thai và rất hay phối hợp với nhiễm HIV.
Triệu chứng và dấu hiệu
Bệnh nhân đến với y tế vì thiếu máu, chảy máu hay những bất thường về thần kinh. Những triệu chứng và dấu hiệu bất thường có thể gồm xanh nhợt và suy yếu nhiều phút. Những triệu chứng thần kinh gồm đau đầu, lú lẫn, không nói được, suy giảm ý thức từ lơ mơ ngủ lịm đến hôn mê. Bệnh tiến triển hơn có thể liệt nhẹ nửa người và những cơn co giật.
Thăm khám bệnh nhân tỏ ra ốm yếu nặng và thường có sốt. Có thể thấy xanh xao, ban và chấm xuất huyết và các dấu hiệu rối loạn chức năng thần kinh. Bệnh nhân có thể bị đau bụng và nhậy cảm đau do viêm tuy.
Xét nghiệm
Thiếu máu bao gíờ cũng có và có thể rất nặng. Hồng cầu lưới tăng nhiều và đôi khi có hồng cầu có nhân lưu hành. Dấu hiệu đặc biệt là hình ảnh bệnh lý của động mạch nhỏ với những hồng cầu phân mảnh (mảnh vỡ hồng cầu, hồng cầu hình nắp chụp, hình tam giác) trên kính phết. Không thể chẩn đoán nếu không có hồng cầu phân mảnh đáng kể. Giảm tiểu cầu bao giờ cũng có và có thể giảm nặng. Bạch cầu tăng dòng trung tính.
Huyết tán biểu hiện bằng tăng bilirubin gián tiếp, không có haptoglobin và đôi khi có hemoglobin huyết và hemoglobin niệu. Trong những trường hợp nặng, methemalbumin máu có thể làm cho huyết tương có màu nâu. LDH thường tăng cao mạnh tỷ lệ với mức độ nặng của huyết tán. Test Coombs âm tinh.
Các test đông máu (thời gian prothrombin, thời gian thromboplastin một phần, fìbrinogen) bình thường. Có thể có tăng các sản phẩm thoái giáng fibrin, ở những bệnh nhân nặng. Suy thận có thể gặp và nước tiểu bất thường trên xét nghiệm.
Về mặt bệnh lý, thấy cục đông trên các mao mạch và các động mạch nhỏ và không thấy rõ hiện tượng viêm.
Chẩn đoán phân biệt
Những trị giá bình thường của các test vùng máu phân biệt xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối với đông máu rải rác nội mạch. Phải loại trừ những nguyên nhân khác gây huyết tán bệnh lí tiểu động mạch. Hội chứng Evans được đặc trưng bởi sự phối hợp giảm tiểu cầu tự miễn và thiếu máu huyết tán tự miễn nhưng kính phết máu ngoại biên thấy có hồng cầu hình bi và không có các mảng hồng cầu. Sinh thiết da hay niêm mạc thường không cần thiết cho chẩn đoán nhưng có thể giúp ích khi có viêm mạch. Viêm nội tâm mạc cũng có thể giống xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối.
Bảng. Nguyên nhân của thiếu máu huyết tán bệnh lí tiểu động mạch
Ban xuất huyết giảm tiểu cằu huyết khối.
Hội chứng huyết tán - tăng ure máu.
Đông máu nội mạch rải rác.
Huyết tán do van tim giả.
Di căn của adenocarcinom.
Tăng huyết áp ác tính.
Viêm mạch máu.
Điều trị
Ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối thường được điều trị trên cơ sở cấp cứu, bằng khối lượng lớn huyết tương đã tinh chế. 60 - 80 ml/kg của huyết tương được lấy ra và thay thế bằng plasma đông lạnh. Tiếp tục điều trị hàng ngày cho đến khi bệnh nhân hoàn toàn hồi phục. Prednison và các chất chống kết tập tiểu cầu (aspirin 325 mg x 3 lần/ngày và dipyridamol (75 mg x 3 lần/ ngày) thường được dùng thêm vào huyết tương đã tinh chế nhưng vai trò của chúng chưa rõ.
Những bệnh nhân không đáp ứng với huyết tương tinh chế hoặc tái phát nhanh cần phải cắt lách. Việc phối hợp cắt lách, corticoid và dextran rất có hiệu quả.
Tiên lượng
Với phương pháp dùng huyết tương đã tinh chế mà tiên lượng buồn thảm trước đây của xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối nay được thay đổi một cách mạnh mẽ. Ngày nay, 80 - 90% bệnh nhân đã được hồi phục hoàn toàn. Những bất thường về thần kinh hầu như đã được loại trừ hoàn toàn. Phần lớn những đáp ứng hoàn toàn kéo dài nhưng trong 10 - 20% số trường hợp chuyển thành mạn tính và tái phát.
Bài viết cùng chuyên mục
Truyền máu: làm test hòa hợp, phản ứng và bệnh lây truyền
Hồng cầu đóng gói là một hợp thành được dùng nhiều nhất để làm tăng hematocrit. Mỗi đơn vị có một thể tích khoảng 300 mL trong đó gần 200 mL chứa hồng cầu.
Hội chứng tán huyết tăng ure huyết
Bệnh nhân đến với thiếu máu, chảy máu hay suy thận. Suy thận có thể có hoặc không có thiểu niệu. Trái với xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối, không có những biểu hiện thần kinh nào ngoài những biểu hiện do tình trạng urê huyết cao.
Macroglobin máu Waldenstrom
Bệnh biểu hiện một cách âm thầm ở những bệnh nhân ở tuổi 60 - 70. Bệnh nhân thường bị mệt do thiếu máu. Tăng quánh của huyết thanh có thể biểu hiện trên một số mặt.
Bệnh hồng cầu hình bi di truyền
Thiếu máu ở những mức độ khác nhau và hematocrit có thể bình thường. Bao giờ cũng có tầng hồng cầu lưới, kính phết máu ngoại biên cho thằy có hồng cầu hình bi, hồng câu nhỏ, nhạt màu ở trung tâm.
Bệnh Hodgkin
Đa số bệnh nhân đến vì một khối không đau, thường là ở cổ, Những dấu hiệu khác yêu cầu sự chú ý về y tế là các triệu chứng thể trạng như sốt
Giảm bạch cầu trung tính
Trường hợp hội chứng Felty dẫn đến nhiễm khuẩn liên tiếp thì cắt lách thường làm giảm loét chân và làm giảm tỉ lệ nhiễm khuẩn nhưng bất cứ điều trị thế nào thì đều không tăng số lượng bạch cầu trung tính.
Bệnh bạch cầu và các rối loạn tăng sinh tủy
Tuy nhiên, những rối loạn này được xếp nhóm cùng nhau vì bệnh có thể tiến triển từ thể này thành thể khác và vì những bệnh lai tạo được xem xét một cách chung
Rối loạn chất lượng tiểu cầu mắc phải
Tất cả rối loạn tặng sinh tủy đều có thể gây ra những bất thường chức năng tiểu cầu. Có một số những bất thường hóa sinh trong những tiểu cầu này nhưng nguyên nhân của khuynh hướng chẩy máu thì không rõ.
Bệnh bạch cầu thể lympho mạn tính
Những bệnh tăng sinh lympho khác như macroglobulin máu Waldenstrom, bệnh bạch cầu tế bào tóc hay u lympho ở giai đoạn bệnh bạch cầu được phân biệt trên cơ sở hình thái các lympho bào lưu hành và tủy xương.
Bệnh đa u tủy
U tủy là một bệnh của người lớn tuổi (tuổi trung bình lúc bị bệnh là 60). Đa số phàn nàn vì những triệu chứng liên quan đến thiếu máu, đau xương và nhiễm khuẩn. Phần nhiều là đau xương sống, xương sườn.
Thiếu máu bất sản
Thiếu máu suy tủy là một hoàn cảnh suy giảm tủy xương phát sinh từ tổn thương hay từ những biểu hiện bất thường của tế bào gốc. Tủy xương trở nên giảm sinh và giảm phát triển ba dòng ngoại biên.
Bệnh Von Willebrand
Yếu tố von Willebrand được tổng hợp trong mẫu tiểu cầu và các tế bào nội mô lưu hành trong huyết tương như những đa chuỗi cỡ khố khác nhau. Chỉ những dạng đa chuỗi dài có chức năng trong việc trung gian dính bám tiểu cầu.
Đái huyết sắc tố kịch phát về đêm
Thiếu máu ở những mức độ nặng khác nhau và có thể có hoặc không có tăng hồng cầu lưới. Những bất thường của kính phết máu không giúp cho chẩn đoán và có thể thấy các hồng cầu hình thoi to.
Bệnh ngưng kết tố lạnh
Đa số những trường hợp bệnh ngưng kết tố lạnh mạn tính là không rõ nguyên nhân. Những trường hợp khác thấy phối hợp với macroglobin máu Waldenstrom, trong đó một paraprotein IgM đơn dòng được sản xuất.
Thiếu acid folic
Acid folic là một thuật ngữ chung dùng cho acid pteroylmonoglutamic. Ở dạng như tetrahydrofolat, nó được dùng như một chất trung gian quan trọng của nhiều phản ứng.
Hemophila B: bệnh ưa chảy máu B
Hemophilia yếu tố IX được điều trị bằng yếu tố IX đâm đặc. Yếu tố VIII đậm đặc là không có hiệu quả trong thể bệnh hemophilia này, do vậy cần phải phân biệt giữa hai thể bệnh.
Thiếu men Pyruvat kinase
Thiếu men pyruvat kinase rất hiếm, là một bệnh di truyền lặn theo nhiễm sác thể thường, gây thiếu máu huyết tán, thường chỉ ở tuổi niên thiếu. Cùng với thiếu máu, có thể lách to và sỏi mật sắc tố.
Đông máu rải rác nội mạch
Quá trình đông máu thường được hạn chế ở một diện tích khu trú bởi sự phối hợp của dòng máu và các chất ức chế động máu lưu hành, đặc biệt là antithrombin III.
Thiếu máu hồng cầu non chứa sắt không Hemoglobin
Khi nhiễm độc chì là nguyên nhân, có thể điều trị bằng liệu pháp chelat hóa. Đôi khi bệnh giảm với những liều folat hoặc pyridoxin 200 mg/ngày, nhưng đa số không đáp ứng với điều trị.
Thiếu men Glucose 6 phosphat dehydrogenase
Bệnh nhân thường vẫn khoẻ, không có thiếu máu mạn tính hay lách to. Huyết tán xẩy ra là kết quả của các stress oxy hóa trên hồng cầu phát sinh ra hoặc bởi nhiễm khuẩn hoặc do dùng một số thuốc nào đó.
Kháng thể yếu tố VIII mắc phải
Điều trị chọn lọc là cyclophosphamid thường phối hợp với prednison. Trong thời gian quá độ, việc thay đổi yếu tố VIII tái phạm có thể là cần thiết. Thay huyết tương để làm giảm trị giá chất ức chế có thể có ích.
Hemophilia A: bệnh ưa chảy máu A
Thật đáng buồn, hiện nay nhiều người bị hemophilia có huyết thanh dương tính của nhiễm HIV lan truyền qua yếu tố VIII cô đặc và nhiều người đã bị AIDS.
Bất sản hồng cầu thuần túy
Bất sản hồng cầu thuần tuý mắc phải ở người trưởng thành là cực kỳ hiếm. Đây có vẻ như là một bệnh tự miễn dịch trong đó một kháng thể IgG đặc biệt đánh vào những tiền thân dòng hồng cầu.
Thiếu vitamin K
Những yếu tố tham gia gây thiếu vitamin K, gồm chế độ dinh dưỡng nghèo nàn, kém hấp thu và những kháng sinh phổ rộng làm mất các khuẩn lạc
Bệnh đa hồng cầu tiên phát
Nếu khối hồng cầu tăng, phải xác định tăng này là tiên phát hay thứ phát. Đa hồng cầu tiên phát là một rối loạn của tủy xương đặc trưng bằng sự sản xuất quá mức tự thân của các tế bào dòng hồng cầu.