- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh mắt
- Viêm thần kinh thị giác
Viêm thần kinh thị giác
Trong tất cả cảc hình thái của viêm thị thần kinh, teo gai thị sẽ xuất hiện sau đó, nếu có sự phá hủy của sợi thần kinh với số lượng đủ.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Viêm thị thần kinh thể hiện đặc trưng bằng giảm thị lực một bên phát triển đột ngột và có thể tăng lên những ngày sau. Xấu nhất thì thị lực thay đổi từ 20/30 đến mất nhận thức ánh sáng. Sau đó thị lực thường tăng lại trong 2 - 3 tuần và nhiều khi trở lại bình thiíờng. Phổ biến là có đau nhức ở vùng mắt, đặc biệt khi mắt vận động. Giảm thị trường, thể hiện bằng điểm mù trung tâm nhưng có thể có nhiều khuyết tật của thị trường một bên. Nhận thức màu sắc bị mất với tổn thương đồng tử. Do đĩa thị có thể bị phù nề kèm theo đôi khi có thoát huyết quanh gai thị hình ngọn nến ở ngoại vi. Trong viêm thị thần kinh hậu nhãn cầu, đĩa thị bình thường.
Trong tất cả cảc hình thái của viêm thị thần kinh, teo gai thị sẽ xuất hiện sau đó, nếu có sự phá hủy của sợi thần kinh với số lượng đủ.
Viêm thị thần kinh thường đặc biệt phối hợp với bệnh mất myelin xuất hiện trên những bệnh nhân được biết như đã bị nhiều xơ cứng mạch máu và là biểu hiện đầu tiên của bệnh trên những bệnh nhân khác. Trên những bệnh nhân với dấu hiệu lâm sàng của viêm thị thần kinh đơn lẻ, khoảng 75% sẽ phát triển xơ hóa nhiều vị trí trong vòng 15 năm; MRI não, xét nghiệm nước não tủy, và rễ não, tìm cảm ứng toàn thân với những khả năng được nêu lên có thể cho thêm thông tin về khả năng có nhiều vị trí bị xơ hóa. Viêm thị thần kinh cũng có thể xuất hiện phối hợp với nhiễm virus (bao gồm virus quai bị, sởi, cúm và virus gây thủy đậu, zoster), với nhiều tổn thương miễn dịch tự miễn đặc biệt lupus ban đỏ toàn thân, và do sự lan tràn của viêm từ màng não tổ chức hốc mát hoặc xoang cạnh mũi.
Chỉ đơn độc prednisolon không có tác dụng tốt đạt tốc độ phục hồi thị lực trong viêm thị thần kinh cấp mất myelin và có thể tăng cường nguy cơ tái phát của bệnh. Tuy nhiên tiêm tĩnh mạch methylprednisolon (250 mg 6 giờ/lần trong 3 ngày) sau đó, uống prednisólon (1mg/kg trong 11 ngày rồi giảm dần sau 4 ngày) làm tăng nhanh sự phục hồi thị lực và giải quyết tốt một số thông số thị lực nhưng có nguy cơ nhỏ gây tác dụng phụ toàn thân. Vấn đề điều trị như vậy áp dụng cho một cá nhân bệnh nhân phải được xác định bởi mức độ giảm thị lực, tình trạng của mắt bên kia, yêu cầu của bệnh nhân cần thị lực có mức độ nào và tính chất của tác dụng phụ đối với điều trị bằng steroid. Viêm thị thần kinh do herpes zoster hoặc lupus ban đỏ toàn thân thường có tiên lượng xấu hơn những hình thái khác của viêm thị thần kinh và cũng đòi hỏi điều trị bằng liều lượng cao steroid tĩnh mạch. Tất cả các bệnh nhân bị viêm thị thần kinh cần được gửi cấp cứu đến thầy thuốc nhãn khoa. Bất cứ bệnh nhân nào được chẩn đoán lâm sàng bị viêm thị thần kinh cần được gửi cấp cứu đến thầy thuốc nhãn khoa. Bất cứ bệnh nhân nào được chẩn đoán lâm sàng bị viêm thị thần kinh đơn lẻ, trong đó sự phục hồi thị lực không đạt đòi hỏi quan sát thêm sau này, đặc biệt để loại trừ một tổn thương do chèn ép hoặc một khối u trong thị thần kinh.
Bài viết cùng chuyên mục
Các kỹ thuật dùng trong điều trị tổn thương mắt
Khi bệnh nhân tự tra thuốc, kỹ thuật trên vẫn được áp dụng, trừ trường hợp thuốc cần tra với bệnh nhân ở tư thế nằm.
Dị vật nội nhãn
Những bệnh nhân này cần được điều trị như giác mạc bị xé rách và gửi ngay đến bác sĩ nhãn khoa.
Di vật kết giác mạc
Cần nhấn mạnh là biểu mô giác mạc nguyên vẹn là một hàng rào có ích để chống nhiễm khuẩn nhưng một khi biểu mô bị tổn thương nó sẽ rất dễ dàng bị nhiễm khuẩn.
Đụng giập mắt
Một tổn thương đủ trầm trọng để gây chảy máu tiền phòng tạo nên nguy cơ thoát huyết tái phát, có thể gây glocom khó chữa và mất thị lực vĩnh viễn.
Viêm kết mạc và giác mạc do hóa chất
Cần bắt đầu ngay tra kháng sinh tại chỗ. Trong bỏng vừa và nặng, cần tra nhiều corticoid và vitamin C tại chỗ và toàn thân.
Tổn thương thần kinh thị giác phần trước do thiếu máu cục bộ
Trong hình thái không phổ biến, tiến triển của tổn thương thị thần kinh phần trước thiếu mảu không do viêm mạch máu đặc trưng bằng giảm thị lực tăng lên trong 6 tuần lễ từ khi bắt đầu đã áp dụng cách đục lỗ bao thị thần kinh.
Bệnh mắt do bệnh tuyến giáp trạng
Biến chứng quan trọng nhất là giác mạc bị bộc lộ và thị thần kinh bị chèn ép, cả hai đều có thể dẫn đến giảm sút thị lực trầm trọng.
Hạt kết mạc góc mắt và mộng thịt
Hạt kết mạc góc mắt rất hiếm khi phát triển nhưng hiện tượng viêm có thể xuất hiện. Không cần thiết phải điều trị.
Glocom góc mở
Trong glocom góc mở, nhãn áp cao thường xuyên sau nhiều năm, nhiều tháng, hậu qủa sẽ là teo gai thị với mất thị lực đi từ thu hẹp nhẹ của thị trường phía giữa trên đến mù hoàn toàn.
Tắc động mạch và tắc nhánh trung tâm võng mạc
Viêm tĩnh mạch do tế bào khổng lồ cần được loại trừ đối với tất cả bệnh nhân cao tuổi, đặc biệt do nguy cơ rất cao trong những ngày đầu của tổn thương ở mắt bên kia.
Kính tiếp xúc: sử dụng và biến chứng
Loại kính sử dụng một lần không có nguy cơ gây loét giác mạc. Những hệ thống không dùng phương pháp rửa kính rất dễ gây viêm giác mạc do acanthamoeba.
Thoái hóa hoàng điểm liên quan đến tuổi cao
Trong thoái hóa tiết dịch, giảm thị lực bắt đầu nhanh hơn, mức độ nặng hơn và cả hai mắt bị đau nối tiếp nhau trong khoảng vài ba năm.
Liệt vận nhãn
Chấn thương là nguyên nhân chính mắc phải của dây IV, đặc biệt khi ở hai mắt những khối u trong não và những nguyên nhân giống như trong liệt dây III cũng cần được chú ý.
Tật khúc xạ
Trong loạn thị những tật khúc xạ ở các kinh tuyến dọc và ngang khác nhau. Có nhiều kỹ thuật phẫu thuật có giá trị để điều chỉnh tật khúc xạ, đặc biệt là cận thị.
Viêm kết mạc
Cần chẩn đoán phân biệt giữa viêm kết mạc và viêm màng bồ đào cấp, glocom cấp và tổn thương giác mạc.
Thoát huyết dịch kính
Mắt không bị viêm và dấu hiệu chính của chẩn đoán là không thể quan sát đáy mắt mặc dầu thể thủy tinh vẫn trong suốt.
Viêm tổ chức hốc mắt
Ngoài ra còn có tổn thương màng não và não. Sự đáp ứng đối với kháng sinh rất tốt những áp xe khi hình thành cần được tiến hành phẫu thuật dẫn lưu.
Triệu chứng và dấu hiệu của bệnh mắt
Thông thường sợ ánh sáng là do tình trạng viêm của giác mạc, không có thể thủy tinh, viêm màng bồ đào hoặc bạch tạng.
Nguyên tắc điều trị các nhiễm khuẩn mắt
Sulfomid còn có thuận lợi thêm là ít gây dị ứng và có tác dụng chống nhóm chlamydia. Thuốc có thể dùng dưới dạng mỡ hoặc nước.
Tổn thương võng mạc phối hợp với bệnh toàn thân
Tổn thương không tăng sinh được đặc trưng bằng tân mạch hoặc xuất phát từ đĩa thị giác hoặc từ những vòng quai mạch máu lớn.
Viêm màng bồ đào
Trong viêm màng bồ đào sau có tế bào viêm trong dịch kính, tổn thương viêm có thể có ở võng mạc và hắc mạc.
Glocom cấp: glocom góc đóng
Glocom góc đóng cấp cũng có thể xuất hiện trong viêm màng bồ đào trước kéo dài hoặc lệch thể thủy tinh.
Khám mắt
Đo thị trường đối chiếu là một phương pháp rất có giá trị để phát hiện các thu hẹp thị trường.
Tổn thương xé rách ở mắt
Mắt được băng nhẹ và bảo vệ bằng một vỏ kim khí, dựa trên xương hốc mắt trên và dưới. Bệnh nhân cần được hướng dẫn không bóp vào mắt đã nhắm kín để mát càng yên càng tốt.
Tắc tĩnh mạch và tắc nhánh trung tâm vong mạc
Tất cả bệnh nhân bị tắc tĩnh mạch võng mạc cần được gửi ngay tới bác sỹ nhãn khoa để xác định chẩn đoán và xử trí.