Kính tiếp xúc: sử dụng và biến chứng

2016-07-14 12:02 PM

Loại kính sử dụng một lần không có nguy cơ gây loét giác mạc. Những hệ thống không dùng phương pháp rửa kính rất dễ gây viêm giác mạc do acanthamoeba.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Kính tiếp xúc ngày càng được dùng nhiều hơn để chỉnh các tật khúc xạ để bù lại việc ngày càng ít dùng trong điều trị các bệnh của giác mạc, kết mạc, hoặc mí mắt. Người ta đánh giá rằng năm 1987 có 18 triệu người đeo kính tiếp xúc ở Mỹ.

Các loại kính tiếp xúc khác nhau là kính cứng bằng polymethylmethacrylat (PMMA). Kính tiếp xúc thấm hơi bằng butyrat acetat cellulose (CAB) hoặc Acrylat Silicon và kính mềm (hydrogel) bằng hydroxyrethylmethacrylat (HEMA). Kính cứng dùng được lâu hơn và dễ bảo quản hơn kính mềm nhưng mắt dung nạp kém hơn. Kính cứng thấm không khí là loại có ích trung bình.

Bảo quản kính tiếp xúc bao gồm lau sạch và tiệt trùng khi tháo kính khỏi mắt và loại bỏ các chất protein ứ đọng. Tiệt trùng bao gồm các phương pháp dùng nhiệt hoặc hóa chất. Đối với những bệnh nhân có phản ứng đối với các chất bảo quản kính, có thể tiệt trùng bằng những loại khác không dùng chất bảo quản. Tất cả các kính tiếp xúc có thể dùng được đeo trong một ngày, có nghĩa là lắp vào mắt buổi sáng và tháo ra ban đêm, kính mềm có thể đeo thời gian dài hơn. Có loại kính mềm để tránh phải lau rửa sạch hoặc tiệt trùng được dùng đeo hàng ngày hoặc kéo dài lâu hơn.

Nguy cơ lớn của đeo kính tiếp xúc là làm loét giác mạc có khả năng dẫn đến mù mắt. Trong số bệnh nhân đeo kính tiếp xúc ở Mỹ có khoảng 12 nghìn trường hợp loét giác mạc một năm. Kính mềm, đặc biệt khi đeo kéo dài có nguy cơ gây loét giác mạc nhiều hơn khi đeo hàng ngày. Nguy cơ đối với đeo kéo dài tăng lên đêm đầu tiên sau khi đeo qua đêm, sau đó nguy cơ ngày càng tăng dần. Loại kính sử dụng một lần không có nguy cơ gây loét giác mạc. Những hệ thống không dùng phương pháp rửa kính rất dễ gây viêm giác mạc do acanthamoeba.

Những người đeo kính tiếp xúc nhằm mục đích mỹ quan cần được thông báo về các nguy cơ khi đeo kính và các phương pháp để giảm các nguy cơ tới mức tối thiểu, ví dụ tránh đeo kính mềm với thời gian kéo dài, và, bảo đảm vệ sinh kính một cách tỷ mỷ. Cứ khi nào đeo kính thấy khó chịu hoặc đỏ mắt, cần tháo kính ra. Nếu các triệu chứng không hết thì cần đi khám bác sĩ chuyên khoa ngay.

Bài viết cùng chuyên mục

Glocom góc mở

Trong glocom góc mở, nhãn áp cao thường xuyên sau nhiều năm, nhiều tháng, hậu qủa sẽ là teo gai thị với mất thị lực đi từ thu hẹp nhẹ của thị trường phía giữa trên đến mù hoàn toàn.

Đụng giập mắt

Một tổn thương đủ trầm trọng để gây chảy máu tiền phòng tạo nên nguy cơ thoát huyết tái phát, có thể gây glocom khó chữa và mất thị lực vĩnh viễn.

Viêm thần kinh thị giác

Trong tất cả cảc hình thái của viêm thị thần kinh, teo gai thị sẽ xuất hiện sau đó, nếu có sự phá hủy của sợi thần kinh với số lượng đủ.

Bệnh mắt do bệnh tuyến giáp trạng

Biến chứng quan trọng nhất là giác mạc bị bộc lộ và thị thần kinh bị chèn ép, cả hai đều có thể dẫn đến giảm sút thị lực trầm trọng.

Đục thể thủy tinh

Ngay ở các giai đoạn sớm nhất, đục thể thủy tinh có thể thấy được qua đồng tử tán rộng khi soi máy đáy mắt, đèn khe, hoặc bằng một ánh sáng cầm tay.

Tắc động mạch và tắc nhánh trung tâm võng mạc

Viêm tĩnh mạch do tế bào khổng lồ cần được loại trừ đối với tất cả bệnh nhân cao tuổi, đặc biệt do nguy cơ rất cao trong những ngày đầu của tổn thương ở mắt bên kia.

Tổn thương mí mắt và lệ bộ

Chắp là một loại u hạt của tuyến Meibomius có thể tiếp theo lẹo. Nó được đặc trưng bằng phù nề, chắc nhưng không căng của mí trên hoặc mí dưới.

Viêm kết mạc

Cần chẩn đoán phân biệt giữa viêm kết mạc và viêm màng bồ đào cấp, glocom cấp và tổn thương giác mạc.

Viêm tổ chức hốc mắt

Ngoài ra còn có tổn thương màng não và não. Sự đáp ứng đối với kháng sinh rất tốt những áp xe khi hình thành cần được tiến hành phẫu thuật dẫn lưu.

Phù gai thị

Viêm thị thần kinh gây giảm thị lực, nhiều khi có điểm mù trung tâm, mất cảm nhận màu sắc và tổn thương đồng tử tương đối do thần kinh quy tâm.

Viêm kết mạc và giác mạc do hóa chất

Cần bắt đầu ngay tra kháng sinh tại chỗ. Trong bỏng vừa và nặng, cần tra nhiều corticoid và vitamin C tại chỗ và toàn thân.

Nguyên tắc điều trị các nhiễm khuẩn mắt

Sulfomid còn có thuận lợi thêm là ít gây dị ứng và có tác dụng chống nhóm chlamydia. Thuốc có thể dùng dưới dạng mỡ hoặc nước.

Tắc tĩnh mạch và tắc nhánh trung tâm vong mạc

Tất cả bệnh nhân bị tắc tĩnh mạch võng mạc cần được gửi ngay tới bác sỹ nhãn khoa để xác định chẩn đoán và xử trí.

Tổn thương thần kinh thị giác phần trước do thiếu máu cục bộ

Trong hình thái không phổ biến, tiến triển của tổn thương thị thần kinh phần trước thiếu mảu không do viêm mạch máu đặc trưng bằng giảm thị lực tăng lên trong 6 tuần lễ từ khi bắt đầu đã áp dụng cách đục lỗ bao thị thần kinh.

Mù mắt thoáng qua

Trên các bệnh nhân không có bệnh ở động mạch cảnh, hoặc ở tim, đặc biệt trên người trẻ, mù mắt, thoảng qua được nghĩ đến là do co thắt mạch máu võng mạc.

Những điều cần chú ý khi xử trí tổn thương mắt

Cảm giác bỏng hoặc đau nhức được tạo nên do tra thuốc hoặc đặt kính tiếp xúc, đôi khi xơ hóa hoặc sẹo hóa kết giác mạc có thể xuất hiện.

Hạt kết mạc góc mắt và mộng thịt

Hạt kết mạc góc mắt rất hiếm khi phát triển nhưng hiện tượng viêm có thể xuất hiện. Không cần thiết phải điều trị.

Dị vật nội nhãn

Những bệnh nhân này cần được điều trị như giác mạc bị xé rách và gửi ngay đến bác sĩ nhãn khoa.

Bong võng mạc

Vùng thái dương trên là vị trí phổ biến nhất của bong, diện bong ngày càng phát triển nhanh chóng, làm cho thị lực cũng mất theo tương ứng.

Tổn thương võng mạc phối hợp với bệnh toàn thân

Tổn thương không tăng sinh được đặc trưng bằng tân mạch hoặc xuất phát từ đĩa thị giác hoặc từ những vòng quai mạch máu lớn.

Tổn thương xé rách ở mắt

Mắt được băng nhẹ và bảo vệ bằng một vỏ kim khí, dựa trên xương hốc mắt trên và dưới. Bệnh nhân cần được hướng dẫn không bóp vào mắt đã nhắm kín để mát càng yên càng tốt.

Tật khúc xạ

Trong loạn thị những tật khúc xạ ở các kinh tuyến dọc và ngang khác nhau. Có nhiều kỹ thuật phẫu thuật có giá trị để điều chỉnh tật khúc xạ, đặc biệt là cận thị.

Glocom cấp: glocom góc đóng

Glocom góc đóng cấp cũng có thể xuất hiện trong viêm màng bồ đào trước kéo dài hoặc lệch thể thủy tinh.

Thoát huyết dịch kính

Mắt không bị viêm và dấu hiệu chính của chẩn đoán là không thể quan sát đáy mắt mặc dầu thể thủy tinh vẫn trong suốt.

Liệt vận nhãn

Chấn thương là nguyên nhân chính mắc phải của dây IV, đặc biệt khi ở hai mắt những khối u trong não và những nguyên nhân giống như trong liệt dây III cũng cần được chú ý.