- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh mắt
- Kính tiếp xúc: sử dụng và biến chứng
Kính tiếp xúc: sử dụng và biến chứng
Loại kính sử dụng một lần không có nguy cơ gây loét giác mạc. Những hệ thống không dùng phương pháp rửa kính rất dễ gây viêm giác mạc do acanthamoeba.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Kính tiếp xúc ngày càng được dùng nhiều hơn để chỉnh các tật khúc xạ để bù lại việc ngày càng ít dùng trong điều trị các bệnh của giác mạc, kết mạc, hoặc mí mắt. Người ta đánh giá rằng năm 1987 có 18 triệu người đeo kính tiếp xúc ở Mỹ.
Các loại kính tiếp xúc khác nhau là kính cứng bằng polymethylmethacrylat (PMMA). Kính tiếp xúc thấm hơi bằng butyrat acetat cellulose (CAB) hoặc Acrylat Silicon và kính mềm (hydrogel) bằng hydroxyrethylmethacrylat (HEMA). Kính cứng dùng được lâu hơn và dễ bảo quản hơn kính mềm nhưng mắt dung nạp kém hơn. Kính cứng thấm không khí là loại có ích trung bình.
Bảo quản kính tiếp xúc bao gồm lau sạch và tiệt trùng khi tháo kính khỏi mắt và loại bỏ các chất protein ứ đọng. Tiệt trùng bao gồm các phương pháp dùng nhiệt hoặc hóa chất. Đối với những bệnh nhân có phản ứng đối với các chất bảo quản kính, có thể tiệt trùng bằng những loại khác không dùng chất bảo quản. Tất cả các kính tiếp xúc có thể dùng được đeo trong một ngày, có nghĩa là lắp vào mắt buổi sáng và tháo ra ban đêm, kính mềm có thể đeo thời gian dài hơn. Có loại kính mềm để tránh phải lau rửa sạch hoặc tiệt trùng được dùng đeo hàng ngày hoặc kéo dài lâu hơn.
Nguy cơ lớn của đeo kính tiếp xúc là làm loét giác mạc có khả năng dẫn đến mù mắt. Trong số bệnh nhân đeo kính tiếp xúc ở Mỹ có khoảng 12 nghìn trường hợp loét giác mạc một năm. Kính mềm, đặc biệt khi đeo kéo dài có nguy cơ gây loét giác mạc nhiều hơn khi đeo hàng ngày. Nguy cơ đối với đeo kéo dài tăng lên đêm đầu tiên sau khi đeo qua đêm, sau đó nguy cơ ngày càng tăng dần. Loại kính sử dụng một lần không có nguy cơ gây loét giác mạc. Những hệ thống không dùng phương pháp rửa kính rất dễ gây viêm giác mạc do acanthamoeba.
Những người đeo kính tiếp xúc nhằm mục đích mỹ quan cần được thông báo về các nguy cơ khi đeo kính và các phương pháp để giảm các nguy cơ tới mức tối thiểu, ví dụ tránh đeo kính mềm với thời gian kéo dài, và, bảo đảm vệ sinh kính một cách tỷ mỷ. Cứ khi nào đeo kính thấy khó chịu hoặc đỏ mắt, cần tháo kính ra. Nếu các triệu chứng không hết thì cần đi khám bác sĩ chuyên khoa ngay.
Bài viết cùng chuyên mục
Triệu chứng và dấu hiệu của bệnh mắt
Thông thường sợ ánh sáng là do tình trạng viêm của giác mạc, không có thể thủy tinh, viêm màng bồ đào hoặc bạch tạng.
Tổn thương thần kinh thị giác phần trước do thiếu máu cục bộ
Trong hình thái không phổ biến, tiến triển của tổn thương thị thần kinh phần trước thiếu mảu không do viêm mạch máu đặc trưng bằng giảm thị lực tăng lên trong 6 tuần lễ từ khi bắt đầu đã áp dụng cách đục lỗ bao thị thần kinh.
Đục thể thủy tinh
Ngay ở các giai đoạn sớm nhất, đục thể thủy tinh có thể thấy được qua đồng tử tán rộng khi soi máy đáy mắt, đèn khe, hoặc bằng một ánh sáng cầm tay.
Tật khúc xạ
Trong loạn thị những tật khúc xạ ở các kinh tuyến dọc và ngang khác nhau. Có nhiều kỹ thuật phẫu thuật có giá trị để điều chỉnh tật khúc xạ, đặc biệt là cận thị.
Liệt vận nhãn
Chấn thương là nguyên nhân chính mắc phải của dây IV, đặc biệt khi ở hai mắt những khối u trong não và những nguyên nhân giống như trong liệt dây III cũng cần được chú ý.
Những mối liên quan đến mắt
Bệnh nhân cận thị cần được báo động về nguy cơ bong võng mạc, và cần được thông báo về tầm quan trọng của việc mô tả những triệu chứng liên quan.
Viêm kết mạc và giác mạc do hóa chất
Cần bắt đầu ngay tra kháng sinh tại chỗ. Trong bỏng vừa và nặng, cần tra nhiều corticoid và vitamin C tại chỗ và toàn thân.
Khám mắt
Đo thị trường đối chiếu là một phương pháp rất có giá trị để phát hiện các thu hẹp thị trường.
Viêm thần kinh thị giác
Trong tất cả cảc hình thái của viêm thị thần kinh, teo gai thị sẽ xuất hiện sau đó, nếu có sự phá hủy của sợi thần kinh với số lượng đủ.
Loét giác mạc
Bệnh nhân than phiền bị đau nhức, sợ ánh sáng, chảy nước mắt và giảm thị lực. Mắt đỏ, chủ yếu quanh rìa giác mạc, có thể có tiết dử mủ hoặc nước.
Glocom cấp: glocom góc đóng
Glocom góc đóng cấp cũng có thể xuất hiện trong viêm màng bồ đào trước kéo dài hoặc lệch thể thủy tinh.
Nguyên tắc điều trị các nhiễm khuẩn mắt
Sulfomid còn có thuận lợi thêm là ít gây dị ứng và có tác dụng chống nhóm chlamydia. Thuốc có thể dùng dưới dạng mỡ hoặc nước.
Các kỹ thuật dùng trong điều trị tổn thương mắt
Khi bệnh nhân tự tra thuốc, kỹ thuật trên vẫn được áp dụng, trừ trường hợp thuốc cần tra với bệnh nhân ở tư thế nằm.
Đụng giập mắt
Một tổn thương đủ trầm trọng để gây chảy máu tiền phòng tạo nên nguy cơ thoát huyết tái phát, có thể gây glocom khó chữa và mất thị lực vĩnh viễn.
Viêm màng bồ đào
Trong viêm màng bồ đào sau có tế bào viêm trong dịch kính, tổn thương viêm có thể có ở võng mạc và hắc mạc.
Xước giác mạc
Nếu nghi ngờ có trầy xước giác mạc mà không phát hiện được cần tra thuốc nhuộm huỳnh quang vô trùng vào túi kết mạc.
Phù gai thị
Viêm thị thần kinh gây giảm thị lực, nhiều khi có điểm mù trung tâm, mất cảm nhận màu sắc và tổn thương đồng tử tương đối do thần kinh quy tâm.
Những điều cần chú ý khi xử trí tổn thương mắt
Cảm giác bỏng hoặc đau nhức được tạo nên do tra thuốc hoặc đặt kính tiếp xúc, đôi khi xơ hóa hoặc sẹo hóa kết giác mạc có thể xuất hiện.
Tổn thương mí mắt và lệ bộ
Chắp là một loại u hạt của tuyến Meibomius có thể tiếp theo lẹo. Nó được đặc trưng bằng phù nề, chắc nhưng không căng của mí trên hoặc mí dưới.
Viêm giác mạc do tia cực tím
Khám bằng đèn khe sau khi tra thuốc nhuộm huỳnh quang vô trùng sẽ phát hiện chấm tỏa lan bắt mầu ở cả hai giác mạc.
Glocom góc mở
Trong glocom góc mở, nhãn áp cao thường xuyên sau nhiều năm, nhiều tháng, hậu qủa sẽ là teo gai thị với mất thị lực đi từ thu hẹp nhẹ của thị trường phía giữa trên đến mù hoàn toàn.
Hạt kết mạc góc mắt và mộng thịt
Hạt kết mạc góc mắt rất hiếm khi phát triển nhưng hiện tượng viêm có thể xuất hiện. Không cần thiết phải điều trị.
Viêm kết mạc
Cần chẩn đoán phân biệt giữa viêm kết mạc và viêm màng bồ đào cấp, glocom cấp và tổn thương giác mạc.
Tắc động mạch và tắc nhánh trung tâm võng mạc
Viêm tĩnh mạch do tế bào khổng lồ cần được loại trừ đối với tất cả bệnh nhân cao tuổi, đặc biệt do nguy cơ rất cao trong những ngày đầu của tổn thương ở mắt bên kia.
Tổn thương xé rách ở mắt
Mắt được băng nhẹ và bảo vệ bằng một vỏ kim khí, dựa trên xương hốc mắt trên và dưới. Bệnh nhân cần được hướng dẫn không bóp vào mắt đã nhắm kín để mát càng yên càng tốt.