- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh mắt
- Bong võng mạc
Bong võng mạc
Vùng thái dương trên là vị trí phổ biến nhất của bong, diện bong ngày càng phát triển nhanh chóng, làm cho thị lực cũng mất theo tương ứng.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán
Nhìn mờ ở một mát, ngày càng nặng ("một bức rèm rủ dần trước mắt").
Không đau nhức, không đỏ.
Phát hiện bong qua soi đáy mắt.
Nhận định chung
Thông thường bong võng mạc xuất hiện ngẫu phát, xong cũng có khi thứ phát sáu chấn thương. Bong võng mạc ngẫu phát thường xuất hiện trên người từ 50 tuổi trở lên. Mổ lấy thể thủy tinh đục hoặc cận thị là hai nguyên nhân tiền thân phổ biến nhất.
Dấu hiệu lâm sàng
Ngay khi võng mạc bị rách, dịch kính có thể thấm qua vết rạch và khu trú sau võng mạc. Yếu tố này phối hợp với sự co kéo của dịch kính và yếu tố trọng lượng gây nên bong tiến triển. Vùng thái dương trên là vị trí phổ biến nhất của bong. Diện bong ngày càng phát triển nhanh chóng, làm cho thị lực cũng mất theo tương ứng.
Thị lực trung tâm vẫn được duy trì cho đến khi hoàng điểm cũng bị bong.
Soi đáy mắt sẽ thấy võng mạc treo vào dịch kính như một đám mây màu xám. Một hoặc nhiều vết rách, thông thường hình lưỡi liềm, màu đỏ hoặc da cam thường có mặt và có thể phát hiện được bởi một thầy thuốc có kinh nghiệm.
Điều trị
Tất cả các trường hợp bong võng mạc cần được gửi ngay tới một thầy thuốc nhãn khoa. Khi vận chuyển, đầu của bệnh nhân cần được giữ ở tư thế mà phần võng mạc bong có thể áp xuống bởi trọng lượng.
Phẫu thuật hướng ngay về khép các vết rách. Việc làm dính vĩnh viễn giữa võng mạc cảm giác thần kinh, biểu mô sắc tố võng mạc và hắc mạc được tạo nên ở vùng bị rách bằng đông lạnh vào củng mạc hoặc đốt võng mạc bằng tia lazer. Nhằm mục đích áp võng mạc cảm giác thần kinh, khi chỗ dính đang phát triển có thể ấn vào củng mạc, với một bọt Silicon hoặc đai. Nước giữa phần võng mạc thần kinh cảm giác và biểu mô sắc tố võng mạc (nước dưới võng mạc) có thể dẫn lưu qua một vết rạch củng mạc và có thể bơm một chất hơi nở vào buồng dịch kính).
Một vài loại bong võng mạc không có biến chứng có thể điều trị bằng kỹ thuật cố định võng mạc bằng hơi trong đó khởi đầu bơm hơi nở vào buồng dịch kính, sau đó đặt đầu bệnh nhân trong tư thế thuận lợi cho võng mạc dễ áp sát. Một khi võng mạc đã được áp lại rồi, vết rách được hàn bằng quang đông bằng lazer hoặc đông lạnh. Tất cả các giai đoạn của phẫu thuật có thể tiến hành bằng gây tê tại chỗ như một kỹ thuật thường quy.
Giai đoạn cuối cùng là để gắn kín vết rách không gây bong nhằm mục đích phòng, bong sau này. Trong bong võng mạc toàn bộ - đặc biệt bong có sự phát triển của các tế bào sợi phát triển vào diện võng mạc hoặc trong buồng dịch kính. Việc gắn lại vết bong có thể chỉ cần cắt bỏ dịch kính, can thiệp trực tiếp vào võng mạc hoặc qua bơm hơi vào võng mạc, bơm khí nở, thậm chí dầu Silicon (sự hiện diện của một khí dãn nở là một phản chỉ định cho khí thường đi qua). Những khí này có thể tồn tại nhiều tuần lễ sau phẫu thuật).
Tiên lượng
Khoảng 80% các trường hợp không có biến chứng có thể chữa khỏi bằng một lần phẫu thuật. 15% còn lại đòi hỏi phẫu thuật tiếp, 5% còn lại không thể dính lại được.
Tiên lượng sẽ xấu hơn khi hoàng điểm bị bong hoặc khi võng mạc đã bị bong từ lâu. Nếu không điều trị, toàn bộ võng mạc sẽ bị bong trong vòng 6 tháng. Bong tự phát cuối cùng sẽ ở hai mắt với tỷ lệ 2 - 25% các trường hợp.
Bài viết cùng chuyên mục
Hạt kết mạc góc mắt và mộng thịt
Hạt kết mạc góc mắt rất hiếm khi phát triển nhưng hiện tượng viêm có thể xuất hiện. Không cần thiết phải điều trị.
Tổn thương mí mắt và lệ bộ
Chắp là một loại u hạt của tuyến Meibomius có thể tiếp theo lẹo. Nó được đặc trưng bằng phù nề, chắc nhưng không căng của mí trên hoặc mí dưới.
Khám mắt
Đo thị trường đối chiếu là một phương pháp rất có giá trị để phát hiện các thu hẹp thị trường.
Liệt vận nhãn
Chấn thương là nguyên nhân chính mắc phải của dây IV, đặc biệt khi ở hai mắt những khối u trong não và những nguyên nhân giống như trong liệt dây III cũng cần được chú ý.
Viêm giác mạc do tia cực tím
Khám bằng đèn khe sau khi tra thuốc nhuộm huỳnh quang vô trùng sẽ phát hiện chấm tỏa lan bắt mầu ở cả hai giác mạc.
Các kỹ thuật dùng trong điều trị tổn thương mắt
Khi bệnh nhân tự tra thuốc, kỹ thuật trên vẫn được áp dụng, trừ trường hợp thuốc cần tra với bệnh nhân ở tư thế nằm.
Viêm tổ chức hốc mắt
Ngoài ra còn có tổn thương màng não và não. Sự đáp ứng đối với kháng sinh rất tốt những áp xe khi hình thành cần được tiến hành phẫu thuật dẫn lưu.
Xước giác mạc
Nếu nghi ngờ có trầy xước giác mạc mà không phát hiện được cần tra thuốc nhuộm huỳnh quang vô trùng vào túi kết mạc.
Đụng giập mắt
Một tổn thương đủ trầm trọng để gây chảy máu tiền phòng tạo nên nguy cơ thoát huyết tái phát, có thể gây glocom khó chữa và mất thị lực vĩnh viễn.
Di vật kết giác mạc
Cần nhấn mạnh là biểu mô giác mạc nguyên vẹn là một hàng rào có ích để chống nhiễm khuẩn nhưng một khi biểu mô bị tổn thương nó sẽ rất dễ dàng bị nhiễm khuẩn.
Nguyên tắc điều trị các nhiễm khuẩn mắt
Sulfomid còn có thuận lợi thêm là ít gây dị ứng và có tác dụng chống nhóm chlamydia. Thuốc có thể dùng dưới dạng mỡ hoặc nước.
Những mối liên quan đến mắt
Bệnh nhân cận thị cần được báo động về nguy cơ bong võng mạc, và cần được thông báo về tầm quan trọng của việc mô tả những triệu chứng liên quan.
Triệu chứng và dấu hiệu của bệnh mắt
Thông thường sợ ánh sáng là do tình trạng viêm của giác mạc, không có thể thủy tinh, viêm màng bồ đào hoặc bạch tạng.
Dị vật nội nhãn
Những bệnh nhân này cần được điều trị như giác mạc bị xé rách và gửi ngay đến bác sĩ nhãn khoa.
Viêm màng bồ đào
Trong viêm màng bồ đào sau có tế bào viêm trong dịch kính, tổn thương viêm có thể có ở võng mạc và hắc mạc.
Viêm thần kinh thị giác
Trong tất cả cảc hình thái của viêm thị thần kinh, teo gai thị sẽ xuất hiện sau đó, nếu có sự phá hủy của sợi thần kinh với số lượng đủ.
Tổn thương võng mạc phối hợp với bệnh toàn thân
Tổn thương không tăng sinh được đặc trưng bằng tân mạch hoặc xuất phát từ đĩa thị giác hoặc từ những vòng quai mạch máu lớn.
Tắc tĩnh mạch và tắc nhánh trung tâm vong mạc
Tất cả bệnh nhân bị tắc tĩnh mạch võng mạc cần được gửi ngay tới bác sỹ nhãn khoa để xác định chẩn đoán và xử trí.
Glocom cấp: glocom góc đóng
Glocom góc đóng cấp cũng có thể xuất hiện trong viêm màng bồ đào trước kéo dài hoặc lệch thể thủy tinh.
Mù mắt thoáng qua
Trên các bệnh nhân không có bệnh ở động mạch cảnh, hoặc ở tim, đặc biệt trên người trẻ, mù mắt, thoảng qua được nghĩ đến là do co thắt mạch máu võng mạc.
Viêm kết mạc và giác mạc do hóa chất
Cần bắt đầu ngay tra kháng sinh tại chỗ. Trong bỏng vừa và nặng, cần tra nhiều corticoid và vitamin C tại chỗ và toàn thân.
Loét giác mạc
Bệnh nhân than phiền bị đau nhức, sợ ánh sáng, chảy nước mắt và giảm thị lực. Mắt đỏ, chủ yếu quanh rìa giác mạc, có thể có tiết dử mủ hoặc nước.
Glocom góc mở
Trong glocom góc mở, nhãn áp cao thường xuyên sau nhiều năm, nhiều tháng, hậu qủa sẽ là teo gai thị với mất thị lực đi từ thu hẹp nhẹ của thị trường phía giữa trên đến mù hoàn toàn.
Đục thể thủy tinh
Ngay ở các giai đoạn sớm nhất, đục thể thủy tinh có thể thấy được qua đồng tử tán rộng khi soi máy đáy mắt, đèn khe, hoặc bằng một ánh sáng cầm tay.
Viêm kết mạc
Cần chẩn đoán phân biệt giữa viêm kết mạc và viêm màng bồ đào cấp, glocom cấp và tổn thương giác mạc.