Ung thư sắc tố
Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Các yếu tố thiết yếu cho chấn đoán
Thương tổn có thể phẳng hay nổi cao hơn mặt da.
Nên nghi ngờ tất cả các thương tổn sắc tố đang có sự thay đổi.
Khám ở nơi có đủ ánh sáng để phát hiện được các màu sắc khác nhau trên thương tổn như màu đỏ, trắng, đen, xanh.
Bờ không đều.
Đánh giá chung
Ung thư sắc tố là nguyên nhân dẫn đến tử vong trong các bệnh của da. Năm 1994 ở Hoa kỳ có 32.000 ca ung thư sắc tố, đứng thứ 9 trong các loại ung thư thường gặp và trong đố có 7.000 ca tử vong. Mặc dù bệnh ung thư sắc tố thường dễ chẩn đoán và điều trị khỏi trong giai đoạn sớm, thế nhưng tỉ lệ chết của bệnh nhân nam người Cap-ca-zơ lại tăng từ 2,2 lên tới 3,3 trên 100.000 dân số từ năm 1973 đến 1988, và đối với nữ tỉ lệ đó tăng từ 1,4 lên 1,7 trên 100.000 dân số. TỈ lệ cứu sống tăng từ 60% trong thời gian 1960 -1963 lên tới 84% năm 1983 -1989. Nhưng tỷ lệ cứụ sống ở châu Phi chỉ là 77% năm 1983-1989, có lẽ do chẩn đoán muộn.
Yếu tố tiên lượng bệnh quan trọng và duy nhất là sự thâm nhiễm (phân loại của Clark) hoặc độ dày của u (phân loại của Breslow). Tỉ lệ cứu sống 5 năm dựa vào độ dày của khối u được tính bằng mm như sau:
< 0,76mm tỉ lệ cứu sống 5 năm là 99%.
0,76 - 1,49mm 95%.
1,5 - 2,49mm 84%.
2,5 - 3,99mm 70%.
> 4mm 44%.
Nếu có di căn hạch 30%.
Nếu di căn xa < 10%.
Những thống kê này chỉ là những điều chú ý chung, vì những trung tâm ung thư sắc tố có thể tiên lượng bệnh một cách chính xác hơn dựa vào sự thâm nhiễm, vị trí thương tổn, hình ảnh giải phẵu bệnh, và giớí tính của bệnh nhân.
Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác. Có xu hướng xẩy ra ngày càng tăng ở người trẻ tuổi. Tuy nhiên do nhận thức tăng, nên ngày nay hầu hết ung thư sắc tố đã và đang được chẩn đoán ở giai đoạn sớm.
Lâm sàng
Ung thư sắc tố nguyên phát có thể được phân thành nhiều loại:
Ung thư sắc tố từ nốt ruồi.
Ung thư sắc tố bề mặt: là loại hay gặp, chiếm 2/3 bệnh nhân.
Ung thư sắc tố dạng u.
Ung thư sắc tố đầu chi từ nốt ruồi: xuất phát từ lòng bàn tay, lòng bàn chân, và nền móng.
Ung thư sắc tố niêm mạc.
Thể linh tinh khác: như ung thư sắc tố nhưng không có màu có nguồn gốc từ bớt xanh (hiếm gập), bớt bẩm sinh vấ từ bớt tế bào khổng lồ.
Trong khi ung thư sắc tố bề mặt hay gặp ở người Cap-ca-zơ, thì ở vùng khác lại có nguy cơ mắc các thể khác, đặc biệt là ung thư sắc tố đầu chi từ nốt ruồi. Loại này thương tổn thường đen, đôi khi thương tổn có hình thù không đều ở lòng bàn tay, lòng bàn chân và khi thương tổn ở giai đoạn đầu thì chi là một đường dọc màu đen, lan rộng ở móng. Ung thư sắc tố đầu chi rất khó chẩn đoán bởi vì các thương tổn sắc tố rất hay xảy ra ở tay, chân và móng của những người da màu mà bác sĩ lại rất lưỡng lự cho làm sinh thiết ở những nơi đố. Kết quả là thường chẩn đoán muộn khi u đã to nhanh. Các bác sĩ nên đặc biệt chú ý tới những thương tổn mới hoặc thương tổn thay đổi ở những vùng này.
Những ung thư sắc tố thực sự rất khác nhau từ dát tới u, với nhiều màu sắc từ màu đỏ đồng tới màu đen và thường lẫn lộn nhiều màu như màu trắng, xanh, tím và đỏ. Bờ có xu hướng không đều, tiến triển có thể nhanh hoặc âm ỉ. Ung thư sắc tố bề mặt thường > 6mm, nhưng ung thư sắc tố dạng u thỉ nhỏ hơn. Một lần nữa, chúng ta nên xem xét thương tổn dựa vào các u sắc tố nghi ngờ hơn là chẩn đoán muộn khi chẩn đoán đã quá rõ ràng.
Điều trị
Điều trị bằng cách phẫu thuật cắt bỏ. Sau khi đã có chẩn đoán bằng giải phẫu bệnh. Vùng phẫu thuật dựa vào kích thước khối u. Phẫu thuật bờ rộng (> 5cm bán kính) thường ít được chỉ định.
U sắc tố loại nhỏ và mảng hoặc loại trung bình yêu cầu cắt rộng cách bờ 1 - 3cm.
U sắc tố tại chỗ chỉ định cắt rộng cách bờ 0,5cm. U sắc tố có độ dày < 1mm thì thường cắt rộng cách bờ 1cm.
Phẫu thuật hạch lympho có chọn lọc khi chưa có biểu hiện lâm sàng đang còn tranh cãi nhiều. Nói chung, phẫu thuật hạch lympho được chỉ định đối với u sắc tố loại trung bình và thường cắt bỏ cả chuỗi lympho. Phẫu thuật hạch có chọn lọc không được chỉ định đối với u < 1mm.
Các trung tâm ung thư sắc tố đã đưa ra hướng tiên lượng đặc biệt, ủng hộ về mặt tâm lý, và đưa ra phương pháp các điều trị mới như là cách ly truyền dịch bờ thương tổn, levamisole và interleukin - 2.
Bài viết cùng chuyên mục
Chai chân: chẩn đoán và điều trị
Điều trị bao gồm sửa lại cho đúng các bất thường cơ học gây ra ma xát và tỳ đè. Phải đi giày vừa và điều chỉnh lại các biến dạng chỉnh hình.
Luput ban đỏ dạng đĩa mạn tính
Khi ANA dương tính với hiệu giá cao, hoặc hình ảnh lâm sàng gợi có thương tổn nội tạng, có kháng thể chống ADN chuỗi kép và giảm bổ thể trong máu sẽ nghĩ tới luput ban đỏ hệ thống.
Hồng ban nút
Nghiên cứu mô cho thấy viêm giữa các tế bào dưới da là đặc trưng của hồng ban nút. Mặt khác, phát hiện đó cũng thấy ở các bệnh có liên đới khác.
Nhiễm nấm ở da
Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.
Viêm da thần kinh: liken thường mạn tính
Cách giải thích cổ điển về viêm da thần kinh là biểu hiện một chu kỳ ngứa gãi tự hết, nhưng không có bằng chứng cho rằng đây là nguyên nhân duy nhất gây nên do thói quen của bệnh nhân.
Bệnh dày sừng do ánh nắng
Phương pháp điều trị nhanh và có hiệu qủa là dùng nitơ lỏng. Thương tổn bị đông lạnh sau vài giây khi dùng tăm bông nhúng trong nitơ lỏng hoặc bằng phương pháp phun.
Bệnh Zona: chẩn đoán và điều trị
Bệnh zona là một bệnh da có bọng nước cấp tính do virus mà virus có hình thái giống như virus thủy đậu. Bệnh thường gặp ở người lớn. Hầu hết bệnh nhân chỉ bị zona một lần.
Lang ben: chẩn đoán và điều trị
Dát nhạt màu cần chẩn đoán phân biệt với bạch biến, dựa vào sự xuất hiện các thương tổn. Bạch biến thường khu trú ở vùng quanh hốc tự nhiên và đầu ngón tay.
Viêm da dị ứng tiếp xúc
Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.
Viêm nang lông
Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.
Chốc: thương tổn ướt có vảy
Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn lâm sàng là các dát, mụn nước, bọng nước, mụn mủ, và vảy tiết màu vàng sáp ong dính. Khi cậy bỏ vảy sẽ để lại vết trợt màu đỏ.
Rụng tóc hói: chẩn đoán và điều trị
Rụng tóc do sẹo thường là rụng tóc vĩnh viễn và không thay đổi được. Không có thuốc nào có thể chữa được trừ khi phẫu thuật cấy tóc.
Viêm da do ánh nắng
Phản ứng viêm da cấp tính, nếu đủ nặng thường kèm theo đau, triệu chứng đường ruột, khó chịu và thậm chí kiệt sức, điều này ít xẩy ra.
Những hình thái bất thường của móng
Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.
Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.
Ngứa: chẩn đoán và điều trị
Có nguyên nhân thông thường nhất của bệnh ngứa liên kết với bệnh toàn thân là tăng ure huyết liên quan đến bệnh tán máu.
Viêm da dạng herpes
Bệnh nhân có viêm ruột nhạy cảm với gluten, nhưng đôi với phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng.
Viêm kẽ: chẩn đoán và điều trị
Điều trị bằng cách luôn giữ cho vùng kẽ đó sạch, khô, và đắp các dung dịch mang lại hiệu quả cao. Nếu tìm thấy bào tử nấm hoặc vi khuẩn, thì phải bôi imidazol chống nấm dạng dung dịch, hoặc bột.
Ung thư tế bào đáy
Một số ít tổn thương có thể loét và gây một sự phá hủy lớn, cuối cùng xâm nhập các cấu trúc sống và hiếm khi xâm nhập vào não, gây tử vong.
Các thương tổn sắc tố da
Những bớt nghi ngờ là những bớt có bờ không đều, không đối xứng hoặc bờ có tua là nơi mà sắc tố thường phát triển lan ra cả phần da bình thường quanh nó.
Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt
Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.
Một số bệnh da có bọng nước
Các bọng nước xuất hiện đầu tiên ở vùng quanh rốn và có thể có các mảng hoặc các nốt đỏ, mụn nước và bọng nước lớn.
Bệnh vảy nến
Bệnh vảy nến là một bệnh viêm da cấp hoặc mạn, hay gặp, lành tính, có tính chất di truyền. Có một số yếu tố trung gian gây bệnh như polyamine, protease, CAMP, các yếu tố phát triển như TGFa và leukotrien.
Trứng cá thường
Bệnh hay gặp hơn và cũng thường nặng hơn ở nam giới. Trái với quan niệm của dân chúng, bệnh không tự khỏi khi trưởng thành. Nếu không được điều trị, bệnh tồn tại đến tuổi 40, 50 hoặc thậm chí tuổi 60.
Hạt cơm: chẩn đoán và điều trị
Một số tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng.