Tổ đỉa: chẩn đoán và điều trị

2016-06-18 10:39 AM

Các mụn nước trong, nhỏ, nằm rải rác ở hai bên của các ngón tay và ở lòng bàn tay, lòng bàn chân. Trông giống như hạt gạo tròn trong bột sắn. Các thương tổn này có thể rất ngứa.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán

Mụn nước 1 - 2mm dạng "bột sắn" ở lòng bàn tay, bàn chân và cạnh các ngón tay, kết hợp với ngứa.

Các mụn nước có thể liên kết với nhau thành đám bọng nước.

Đóng vảy và nứt nẻ xuất hiện sau khi bọng nước khô.

Hay gặp ở những người lứa tuổi 30, và bệnh tái phát phát suốt cuộc đời.

Đánh giá chung

Chàm do rối loạn bài tiết mồ hôi "Dyshidrotic Eczema" là một thuật ngữ dùng sai, từ này gợi cho chúng ta nghĩ tới một bệnh liên quan tới bệnh của ống và tuyến mồ hôi. Đây là một bệnh rất hay gặp ở tay, tiếng Anh thường gọi là Pompholyx (nổi bong bóng) hoặc viêm da mụn nước ở lòng bàn tay và bàn chân. Bệnh nhân thường có một cơ địa bệnh dị ứng và bệnh thường phát ra khi có stress. Ở Scandinavia, phụ nữ thường phát bệnh tổ đỉa khi có dị ứng với nickel như tiếp xúc hoặc uống. Kiêng không dùng nickel cho ta những kết quả tốt. Trong một nghiên cứu người ta thấy 25% bệnh nhân tiến triển tốt khi dùng disulfiram, và uống thuốc cromolyn sodium cũng đưa kết quả có giá trị. Một vài bệnh nhân khi điều trị bằng thuốc uống Urushiol, là một loại kháng nguyên của cây thường xuân và cây sồi, để gây dung nạp cũng bị các thương tổn giống tổ đỉa. Vì vậy, điều này gợi cho ta thấy bệnh tổ đìa là biểu hiện của một thể nào đó của bệnh quá nhạy cảm hoặc dị ứng.

Lâm sàng

Các mụn nước trong, nhỏ, nằm rải rác ở hai bên của các ngón tay và ở lòng bàn tay, lòng bàn chân. Trông giống như hạt gạo tròn trong bột sắn. Các thương tổn này có thể rất ngứa. Giai đoạn cuối, các mụn nước khô và trở thành vảy và nứt nẻ.

Chẩn đoán phân biệt

Cạo nấm ở nền của các mụn nước không còn nóc và sẽ thấy các sợi nấm trong trường hợp mụn nước do nấm. Rất hiếm khi thấy các mụn nước lan ra mu bàn tay, vì đây là biểu hiện thực sự của một viêm da tiếp xúc dị ứng, và tác nhân gây bệnh cần phải được tìm ra bằng tiền sử bệnh và test áp. Bệnh nhân bị nấm ở tay có thể có mụn nước ban nấm da ở lòng bàn tay, nhưng điều này thường ít xảy ra. Rất hiếm bệnh nhân nhiễm HIV lại có thương tổn herpes simplex ở lòng bàn tay mà những thương tổn này có thể nhầm với từng đám mụn nước của tổ đỉa.

Phòng bệnh

Người ta không biết làm thế nào để phòng được bệnh.

Điều trị

Tổ đỉa thường ít nhạy cảm với steroid, mặc dù vậy, thuốc corticosteroid bôi và dạng uống cũng đã có tác dụng ở một số bệnh nhân, vì đây là một bệnh mạn tính, corticosteroid toàn thân thường không phải là thuốc điều trị duy nhất. Dùng thuốc bôi steroid loại mạnh ở giai đoạn sớm của bệnh có thể có giá trị làm giảm phát triển và cải thiện được triệu chứng ngứa. Thuốc bôi steroid cũng có tác dụng lớn trong điều trị thương tổn vảy và nứt nẻ là những thương tổn sau thương tổn mụn nước. Điều cần thiết là bệnh nhân cần tránh tất cả những cái gì mà gây kích thích da, bệnh nhân nên đi găng bằng vải bông phía trong rồi mới đi găng ni lông hoặc nhựa khi làm các việc vặt hay khi rửa bát, dùng các loại bàn chải có cán dài thay thế các mút, phải bôi kem sau khi làm xong các việc đó. Nếu trong tiền sử có dị ứng với niken (phát ban khi dùng các đồ nữ trang giả hoặc khi đeo đồng hồ), có thể điều trị bằng disulfiram ở những bệnh nhân không dị ứng với thiurams, và dùng thuốc uống croniolyn. Ăn kiêng nickel nên được áp dụng và là phương kế điều trị cuối cùng. Bệnh nhân có thể đáp ứng điều trị với PUVA, dùng, psoralen bôi và chiếu UVA hoặc UVA đơn thuần chiếu vào tay và chân.

Tiên lượng

Đối với hầu hết bệnh nhân, đây là một bệnh gây phiền hà. Thậm chí cả thể trung bình và cả thể nặng, cần tránh phát bệnh bằng cách chăm sóc thận trọng và tỉ mì. Đối với một số bệnh nhân có thể không còn khả năng chữa trị.

Bài viết cùng chuyên mục

Luput ban đỏ dạng đĩa mạn tính

Khi ANA dương tính với hiệu giá cao, hoặc hình ảnh lâm sàng gợi có thương tổn nội tạng, có kháng thể chống ADN chuỗi kép và giảm bổ thể trong máu sẽ nghĩ tới luput ban đỏ hệ thống.

Nấm tay và chân

Nấm ở chân là loại bệnh da cấp hoặc mạn tính hay gặp. Một số cá thể hay bị bệnh hơn người khác. Hầu hết các trưồng hơn đều do Trichophyton và Epidemophyton gây nên.

Ung thư sắc tố

Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.

Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.

U mềm lây: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương có thể lan rộng do tự nhiễm. Trong hoạt động tình dục, chúng có thể giới hạn ở vùng sinh dục như dương vật, mu, và mặt trong đùi.

Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy

Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.

Bệnh nấm candida da và niêm mạc

Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum.

Chai chân: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bao gồm sửa lại cho đúng các bất thường cơ học gây ra ma xát và tỳ đè. Phải đi giày vừa và điều chỉnh lại các biến dạng chỉnh hình.

Hạt cơm: chẩn đoán và điều trị

Một số tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng.

Lang ben: chẩn đoán và điều trị

Dát nhạt màu cần chẩn đoán phân biệt với bạch biến, dựa vào sự xuất hiện các thương tổn. Bạch biến thường khu trú ở vùng quanh hốc tự nhiên và đầu ngón tay.

Rối loạn sắc tố da

Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.

Ung thư tế bào đáy

Một số ít tổn thương có thể loét và gây một sự phá hủy lớn, cuối cùng xâm nhập các cấu trúc sống và hiếm khi xâm nhập vào não, gây tử vong.

Ung thư tế bào gai

Cần phải khám da và dùng các liệu pháp điều trị như đối với bệnh ung thư tế bào đáy. Cắt bỏ là cách điều trị được dùng nhiều đối với ung thư tế bào đáy.

Hồng ban ly tâm mãn tính

Ở trung tâm thương tổn nơi bị cắn thì lành, để lại một viền đỏ, nó cũng có thể nổi lên, tạo mụn nước hoặc hoại tử.

Nhiễm nấm ở da

Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.

Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da

Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.

Ghẻ: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.

Bệnh nấm móng

Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân.

Trứng cá đỏ

Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.

Viêm tế bào: chẩn đoán và điều trị

Chẩn đoán phân biệt bao gồm viêm da tiếp xúc cấp ở một chi gây đỏ da, mụn nước và phù như trong viêm mô tế bào nhưng ngứa thay thế bằng triệu chứng đau.

Các thương tổn ở da do động vật chân đốt

Trong các kẽ hở của giường và đồ gỗ, các vết cắn có xu hướng theo đường thẳng hoặc thành đám. Mày đay sẩn là một tổn thương đặc trưng cho các vết cắn của rệp.

Rụng tóc hói: chẩn đoán và điều trị

Rụng tóc do sẹo thường là rụng tóc vĩnh viễn và không thay đổi được. Không có thuốc nào có thể chữa được trừ khi phẫu thuật cấy tóc.

Nhọt và nhọt độc

Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.

Trứng cá thường

Bệnh hay gặp hơn và cũng thường nặng hơn ở nam giới. Trái với quan niệm của dân chúng, bệnh không tự khỏi khi trưởng thành. Nếu không được điều trị, bệnh tồn tại đến tuổi 40, 50 hoặc thậm chí tuổi 60.

Viêm da dạng herpes

Bệnh nhân có viêm ruột nhạy cảm với gluten, nhưng đôi với phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng.