- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh da và phần phụ
- Những hình thái bất thường của móng
Những hình thái bất thường của móng
Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những thay đổi của móng thường không được chẩn đoán là bệnh toàn thân hay bệnh của da. Tất cả các biểu hiện móng của rối loạn toàn thân có thể có hoặc không có biểu hiện của bệnh toàn thân.
Phân loại
Bệnh về móng có thể được phân thành (1) khu trú, (2) bẩm sinh hoặc di truyền, và (3) bệnh móng kết hợp với bệnh tòan thân hay bệnh da lan rộng.
Bệnh móng khu trú
Bong móng (tách phần đầu của móng với nền móng, thường ở móng tay), nguyên nhân do tiếp xúc với nước, xà phòng, chất tẩy rửa, alkali và các chất bong vảy công nghiệp. Nhiễm nấm candida ở vùng quanh móng và khe móng, chất làm cứng móng, demeclocyclin gây nhạy cảm ánh nắng cũng có thể gây bong móng, cả cường giáp hay suy giáp cũng có thể gây bong móng.
Móng méo mó: nguyên nhân do nhiễm khuẩn mạn tính ở chất cơ bản của móng phần dải biểu bì móng. Móng méo mó còn do hạt cơm, khối u, bớt, bệnh bao hoạt dịch và nang của niêm mạc, và sự va chạm vào chất cơ bản móng.
Rối bạn màu sắc và móng dày dễ vỡ: gặp trong ban nấm da.
Phản ứng dị ứng: (do formaldehyd và chất nhựa resin ở lớp dưới áo bành tô và thuốc sơn móng tay) thường gây thương tổn bong móng và móng tay hết sức xoắn vặn, quá sản móng, và móng xấu xí.
Rối loạn móng bẩm sinh và di truyền
Có một rãnh dọc ở móng: nguyên nhân có thể là di truyền hoặc do chấn thương ở chất cơ bản của móng nằm dưới dải biểu bì.
Teo móng: do bẩm sinh.
Ngón tay dùi trống: do bẩm sinh.
Thay đổi móng
Liên quan với bệnh toàn thân hay bệnh ngoài da.
Đường rãnh ngang Beau: có thể xuất hiện sau những đợt ốm nặng.
Teo móng: có thể liên quan tới sang chấn, hoặc bệnh mao mạch hoặc bệnh thần kinh.
Ngón lay dùi trống: có thể liên quan tới bệnh thiếu máu kéo dài và bệnh tim phổi mạn tính.
Móng tay hình thìa: có thể thấy ở bệnh nhân thiếu máu kéo dài.
Móng có cuống hoặc móng rỗ: có thể thấy trong bệnh vảy nến, rụng tóc vá tổ đỉa.
Móng tăng sắc tố: có thể gây nên bởi zidovudin, doxorubicin, cyclophosphamid, metrotrexat, bleomycin, dacarbazin, daunorubicin, íluorouracil, hydrọxyurea, melphalan, mechlorethamin và chất nguồn gốc nitơ.
Chẩn đoán phân biệt
Điều quan trọng là phải phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh hay di truyền với bệnh móng do sang chấn và môi trường. Thay đổi móng do nhiễm nấm có thể khó phân biệt với nhiễm candida. Xét nghiệm tìm nấm bằng phương pháp soi tươi trong KOH 10% hay nuôi cấy trên môi trường Sabouraud có thể chấn đoán được bệnh. Viêm móng do nấm có thể có biểu hiện rất giống với thay đổi của móng trong bệnh vảy nến, liken phẳng, ở các bệnh này quan sát một cách cẩn thận các thương tổn ngoài da là rất cần thiết để chẩn đoán bệnh của móng. Các bệnh quanh móng và dưới móng kéo dài đơn độc phải nghỉ tới ung thư (bệnh Bowen, ung thư tế bào gai).
Biến chứng
Nhiễm khuẩn thứ phát đôi khi có thể xảy ra trên móng bị loạn dưỡng, gây đau và tàn phế hoặc có thể nặng hơn là lúc tuần hoàn máu hay sự cứng cáp của móng bị suy giảm. Sự thay đổi của móng chân cái có thể đưa tới mọc ngược, và rồi lại nhiễm khuẩn thứ phát và có khi tăng tổ chức hạt. Hạn chế việc cắt sửa móng và đi giày chật có thể góp phần gây thêm biến chứng, có thể gây viêm mô tế bào.
Điều trị và tiên lượng
Trong điều trị cần thiết phải lấy bỏ những mảnh vụn và cắt sửa móng và tránh tiếp xúc với các chất gây kích thích (xà phòng, chất tẩy rửa, alkali, chất tẩy trắng vải, và các dung môi). Trong trường hợp nấm móng và viêm quang móng do nấm candida có thể dùng các loại thuốc chống nấm. Bệnh móng bẩm sinh hay di truyền thường không thể thay đổi được. Các rãnh dọc ở móng do các thương tổn tạm thời chất cơ bản như hạt cơm, nang bao hoạt dịch và do các va chạm khác có thể chữa bằng cách lấy bỏ các thương tổn đó. Dùng tramcinolon acetonic 2,5mg/ml có thể tiêm vào chất cơ bản móng 2 - 4 tuần/lần, điều trị rất tốt đối với các bệnh mộng bị loạn dưỡng (vảy nến, liken phẳng) nhưng rất đau.
Nếu như cần thiết phải lấy bỏ móng bị loạn dưỡng do bất cứ nguyên nhân nào (do nấm hoặc vảy nến) thì phương pháp không cần phẫu thuật là dùng hợp chất sau: Ure 40%, lanolin 20%, sáp trắng 5%, Petrolatum trắng 25% và gel Silica loại H. Các kẽ của móng được bôi phức hợp cồn benzoin và bọc lại bằng mảnh vải dính. Đắp mỡ Ure đậm lên bề mặt móng và phủ lên bằng plastic mỏng, và băng dính lên trên. Để như vậy 5 - 7 ngày, nền móng sẽ được nhấc ra. Thuốc điều trị là thuốc cần thiết cho bệnh chính.
Bài viết cùng chuyên mục
Chàm thể tạng: bệnh da có vảy
Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.
Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.
Viêm da do ánh nắng
Phản ứng viêm da cấp tính, nếu đủ nặng thường kèm theo đau, triệu chứng đường ruột, khó chịu và thậm chí kiệt sức, điều này ít xẩy ra.
U mềm lây: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương có thể lan rộng do tự nhiễm. Trong hoạt động tình dục, chúng có thể giới hạn ở vùng sinh dục như dương vật, mu, và mặt trong đùi.
Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt
Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.
Ung thư tế bào gai
Cần phải khám da và dùng các liệu pháp điều trị như đối với bệnh ung thư tế bào đáy. Cắt bỏ là cách điều trị được dùng nhiều đối với ung thư tế bào đáy.
Bệnh vảy nến
Bệnh vảy nến là một bệnh viêm da cấp hoặc mạn, hay gặp, lành tính, có tính chất di truyền. Có một số yếu tố trung gian gây bệnh như polyamine, protease, CAMP, các yếu tố phát triển như TGFa và leukotrien.
Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch
Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.
Bệnh nấm candida da và niêm mạc
Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum.
Rụng tóc hói: chẩn đoán và điều trị
Rụng tóc do sẹo thường là rụng tóc vĩnh viễn và không thay đổi được. Không có thuốc nào có thể chữa được trừ khi phẫu thuật cấy tóc.
Các thương tổn ở da do động vật chân đốt
Trong các kẽ hở của giường và đồ gỗ, các vết cắn có xu hướng theo đường thẳng hoặc thành đám. Mày đay sẩn là một tổn thương đặc trưng cho các vết cắn của rệp.
Bệnh chấy rận
Nhiễm rận ở mu rất ít thấy, đặc biệt dễ gặp ở những người lông rậm; thậm chí có thể tìm thấy rận ở lông mi và ở da đầu.
Nhọt và nhọt độc
Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.
Bệnh Zona: chẩn đoán và điều trị
Bệnh zona là một bệnh da có bọng nước cấp tính do virus mà virus có hình thái giống như virus thủy đậu. Bệnh thường gặp ở người lớn. Hầu hết bệnh nhân chỉ bị zona một lần.
Các thương tổn sắc tố da
Những bớt nghi ngờ là những bớt có bờ không đều, không đối xứng hoặc bờ có tua là nơi mà sắc tố thường phát triển lan ra cả phần da bình thường quanh nó.
Bệnh dày sừng do ánh nắng
Phương pháp điều trị nhanh và có hiệu qủa là dùng nitơ lỏng. Thương tổn bị đông lạnh sau vài giây khi dùng tăm bông nhúng trong nitơ lỏng hoặc bằng phương pháp phun.
Viêm da thần kinh: liken thường mạn tính
Cách giải thích cổ điển về viêm da thần kinh là biểu hiện một chu kỳ ngứa gãi tự hết, nhưng không có bằng chứng cho rằng đây là nguyên nhân duy nhất gây nên do thói quen của bệnh nhân.
Rối loạn sắc tố da
Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.
Ban nấm da: dị ứng hoặc nhạy cảm với nấm
Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn cơ bản là từng nhóm mụn nước, thường khu trú ở mô cái và mô út. Đôi khi thương tổn khu trú ở mu bàn tay thậm chí có thể ở toàn thân.
Viêm nang lông
Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.
Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy
Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.
Vảy phấn hồng Gibert
Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.
Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.
Viêm da dị ứng tiếp xúc
Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.
Hồng ban ly tâm mãn tính
Ở trung tâm thương tổn nơi bị cắn thì lành, để lại một viền đỏ, nó cũng có thể nổi lên, tạo mụn nước hoặc hoại tử.