Những hình thái bất thường của móng

2016-07-12 10:23 AM

Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những thay đổi của móng thường không được chẩn đoán là bệnh toàn thân hay bệnh của da. Tất cả các biểu hiện móng của rối loạn toàn thân có thể có hoặc không có biểu hiện của bệnh toàn thân.

Phân loại

Bệnh về móng có thể được phân thành (1) khu trú, (2) bẩm sinh hoặc di truyền, và (3) bệnh móng kết hợp với bệnh tòan thân hay bệnh da lan rộng.

Bệnh móng khu trú

Bong móng (tách phần đầu của móng với nền móng, thường ở móng tay), nguyên nhân do tiếp xúc với nước, xà phòng, chất tẩy rửa, alkali và các chất bong vảy công nghiệp. Nhiễm nấm candida ở vùng quanh móng và khe móng, chất làm cứng móng, demeclocyclin gây nhạy cảm ánh nắng cũng có thể gây bong móng, cả cường giáp hay suy giáp cũng có thể gây bong móng.

Móng méo mó: nguyên nhân do nhiễm khuẩn mạn tính ở chất cơ bản của móng phần dải biểu bì móng. Móng méo mó còn do hạt cơm, khối u, bớt, bệnh bao hoạt dịch và nang của niêm mạc, và sự va chạm vào chất cơ bản móng.

Rối bạn màu sắc và móng dày dễ vỡ: gặp trong ban nấm da.

Phản ứng dị ứng: (do formaldehyd và chất nhựa resin ở lớp dưới áo bành tô và thuốc sơn móng tay) thường gây thương tổn bong móng và móng tay hết sức xoắn vặn, quá sản móng, và móng xấu xí.

Rối loạn móng bẩm sinh và di truyền

Có một rãnh dọc ở móng: nguyên nhân có thể là di truyền hoặc do chấn thương ở chất cơ bản của móng nằm dưới dải biểu bì.

Teo móng: do bẩm sinh.

Ngón tay dùi trống: do bẩm sinh.

Thay đổi móng

Liên quan với bệnh toàn thân hay bệnh ngoài da.

Đường rãnh ngang Beau: có thể xuất hiện sau những đợt ốm nặng.

Teo móng: có thể liên quan tới sang chấn, hoặc bệnh mao mạch hoặc bệnh thần kinh.

Ngón lay dùi trống: có thể liên quan tới bệnh thiếu máu kéo dài và bệnh tim phổi mạn tính.

Móng tay hình thìa: có thể thấy ở bệnh nhân thiếu máu kéo dài.

Móng có cuống hoặc móng rỗ: có thể thấy trong bệnh vảy nến, rụng tóc vá tổ đỉa.

Móng tăng sắc tố: có thể gây nên bởi zidovudin, doxorubicin, cyclophosphamid, metrotrexat, bleomycin, dacarbazin, daunorubicin, íluorouracil, hydrọxyurea, melphalan, mechlorethamin và chất nguồn gốc nitơ.

Chẩn đoán phân biệt

Điều quan trọng là phải phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh hay di truyền với bệnh móng do sang chấn và môi trường. Thay đổi móng do nhiễm nấm có thể khó phân biệt với nhiễm candida. Xét nghiệm tìm nấm bằng phương pháp soi tươi trong KOH 10% hay nuôi cấy trên môi trường Sabouraud có thể chấn đoán được bệnh. Viêm móng do nấm có thể có biểu hiện rất giống với thay đổi của móng trong bệnh vảy nến, liken phẳng, ở các bệnh này quan sát một cách cẩn thận các thương tổn ngoài da là rất cần thiết để chẩn đoán bệnh của móng. Các bệnh quanh móng và dưới móng kéo dài đơn độc phải nghỉ tới ung thư (bệnh Bowen, ung thư tế bào gai).

Biến chứng

Nhiễm khuẩn thứ phát đôi khi có thể xảy ra trên móng bị loạn dưỡng, gây đau và tàn phế hoặc có thể nặng hơn là lúc tuần hoàn máu hay sự cứng cáp của móng bị suy giảm. Sự thay đổi của móng chân cái có thể đưa tới mọc ngược, và rồi lại nhiễm khuẩn thứ phát và có khi tăng tổ chức hạt. Hạn chế việc cắt sửa móng và đi giày chật có thể góp phần gây thêm biến chứng, có thể gây viêm mô tế bào.

Điều trị và tiên lượng

Trong điều trị cần thiết phải lấy bỏ những mảnh vụn và cắt sửa móng và tránh tiếp xúc với các chất gây kích thích (xà phòng, chất tẩy rửa, alkali, chất tẩy trắng vải, và các dung môi). Trong trường hợp nấm móng và viêm quang móng do nấm candida có thể dùng các loại thuốc chống nấm. Bệnh móng bẩm sinh hay di truyền thường không thể thay đổi được. Các rãnh dọc ở móng do các thương tổn tạm thời chất cơ bản như hạt cơm, nang bao hoạt dịch và do các va chạm khác có thể chữa bằng cách lấy bỏ các thương tổn đó. Dùng tramcinolon acetonic 2,5mg/ml có thể tiêm vào chất cơ bản móng 2 - 4 tuần/lần, điều trị rất tốt đối với các bệnh mộng bị loạn dưỡng (vảy nến, liken phẳng) nhưng rất đau.

Nếu như cần thiết phải lấy bỏ móng bị loạn dưỡng do bất cứ nguyên nhân nào (do nấm hoặc vảy nến) thì phương pháp không cần phẫu thuật là dùng hợp chất sau: Ure 40%, lanolin 20%, sáp trắng 5%, Petrolatum trắng 25% và gel Silica loại H. Các kẽ của móng được bôi phức hợp cồn benzoin và bọc lại bằng mảnh vải dính. Đắp mỡ Ure đậm lên bề mặt móng và phủ lên bằng plastic mỏng, và băng dính lên trên. Để như vậy 5 - 7 ngày, nền móng sẽ được nhấc ra. Thuốc điều trị là thuốc cần thiết cho bệnh chính.

Bài viết cùng chuyên mục

Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.

Ban nấm da: dị ứng hoặc nhạy cảm với nấm

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn cơ bản là từng nhóm mụn nước, thường khu trú ở mô cái và mô út. Đôi khi thương tổn khu trú ở mu bàn tay thậm chí có thể ở toàn thân.

Bệnh vảy nến

Bệnh vảy nến là một bệnh viêm da cấp hoặc mạn, hay gặp, lành tính, có tính chất di truyền. Có một số yếu tố trung gian gây bệnh như polyamine, protease, CAMP, các yếu tố phát triển như TGFa và leukotrien.

Nấm thân hoặc nấm hình vòng

Xét nghiệm nấm dương tính đã phân biệt được bệnh nấm thân với các thương tổn có hình tròn khác như vảy nến, luput đỏ, giang mai, họng ban đa dạng và vảy phấn hồng Gibert.

Viêm da dị ứng tiếp xúc

Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.

Nhiễm nấm ở da

Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.

Nhọt và nhọt độc

Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.

Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy

Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.

Trứng cá thường

Bệnh hay gặp hơn và cũng thường nặng hơn ở nam giới. Trái với quan niệm của dân chúng, bệnh không tự khỏi khi trưởng thành. Nếu không được điều trị, bệnh tồn tại đến tuổi 40, 50 hoặc thậm chí tuổi 60.

Rụng tóc hói: chẩn đoán và điều trị

Rụng tóc do sẹo thường là rụng tóc vĩnh viễn và không thay đổi được. Không có thuốc nào có thể chữa được trừ khi phẫu thuật cấy tóc.

Rôm ban nhiệt

Sử dụng những chế phẩm kháng sinh như chlorhexidin trước khi tiếp xúc với nóng ẩm có thể tránh được rôm. Những người dễ bị rôm nên tránh tiếp xúc với môi trường nóng ẩm.

Nấm tay và chân

Nấm ở chân là loại bệnh da cấp hoặc mạn tính hay gặp. Một số cá thể hay bị bệnh hơn người khác. Hầu hết các trưồng hơn đều do Trichophyton và Epidemophyton gây nên.

Bệnh dày sừng do ánh nắng

Phương pháp điều trị nhanh và có hiệu qủa là dùng nitơ lỏng. Thương tổn bị đông lạnh sau vài giây khi dùng tăm bông nhúng trong nitơ lỏng hoặc bằng phương pháp phun.

Viêm da do ánh nắng

Phản ứng viêm da cấp tính, nếu đủ nặng thường kèm theo đau, triệu chứng đường ruột, khó chịu và thậm chí kiệt sức, điều này ít xẩy ra.

Luput ban đỏ dạng đĩa mạn tính

Khi ANA dương tính với hiệu giá cao, hoặc hình ảnh lâm sàng gợi có thương tổn nội tạng, có kháng thể chống ADN chuỗi kép và giảm bổ thể trong máu sẽ nghĩ tới luput ban đỏ hệ thống.

Hồng ban đa dạng

Hồng ban đa dạng là một bệnh da cấp tính đa hình thái do nhiều nguyên nhân gây nên hoặc do một nguyên nhân không xác định.

Chốc: thương tổn ướt có vảy

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn lâm sàng là các dát, mụn nước, bọng nước, mụn mủ, và vảy tiết màu vàng sáp ong dính. Khi cậy bỏ vảy sẽ để lại vết trợt màu đỏ.

Vảy phấn hồng Gibert

Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.

Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.

Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.

Bệnh Bowen và bệnh Paget

Bệnh tiến triển lành tính, nhưng khi những thương tổn này phát triển thành ung thư tế bào gai xâm lấn, thì cắt bỏ hoặc chỉ định phương pháp điều trị khác.

Hồng ban ly tâm mãn tính

Ở trung tâm thương tổn nơi bị cắn thì lành, để lại một viền đỏ, nó cũng có thể nổi lên, tạo mụn nước hoặc hoại tử.

Ung thư tế bào gai

Cần phải khám da và dùng các liệu pháp điều trị như đối với bệnh ung thư tế bào đáy. Cắt bỏ là cách điều trị được dùng nhiều đối với ung thư tế bào đáy.

Bệnh nấm móng

Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân.

Hạt cơm: chẩn đoán và điều trị

Một số tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng.