Nhiễm nấm ở da

2016-06-13 11:35 AM

Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Theo cổ điển, nhiễm nấm ở da được chia làm 2 nhóm cơ bản là nhiễm nấm nông và nấm sâu. Ở chương này, chúng ta chỉ thảo luận nhiễm nấm nông: nấm tóc, nấm thân, và nấm kẽ, nấm ở tay, ở chân, nấm móng và nấm lang ben.

Việc chẩn đoán nhiễm nấm ở da thường dựa vào vị trí và đặc điểm của thương tổn và dựa vào 2 xét nghiệm cơ bản dưới đây:

(1) Tìm nấm trực tiếp trong KOH 10% hoặc KOH 20% trong DMSO từ những thương tổn nghi ngờ. “Nếu có vảy, hãy cạo nó” là châm ngôn để thực hiện.

(2) Nuôi cây nấm. Sự đáp ứng của nấm da với griseofulvin có thể xác định bằng sự thay đổi màu từ màu vàng thành màu đỏ trong môi trường cấy nấm, hoặc chúng ta có thể dùng nuôi cấy trên lam mà nó gây sự đổi màu cho phép chúng ta xác định trực tiếp dưới kính hiển vi.

(3) Khám bằng đèn Wood (là đèn cực tím với kính lọc đặc biệt), nó làm cho tóc phát quang màu xanh sáng nếu có nhiễm nấm microsporum, đây là một xét nghiệm có giá trị. Tuy nhiên, vì hầu hết nhiễm nấm ở đầu không phải do microsporum nên phương pháp này ít khi dương tính, và khi âm tính thì không có ý nghĩa.

(4) Giải phẫu bệnh bằng kỹ thuật nhuộm (PAS) (periodic - acid - Schiff). Nấm sẽ có màu đỏ và dễ thây.

Phản ứng da và huyết thanh không có giá trị trong nhiễm nấm nông.

Nguyên tắc điều trị

Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân. Rất nhiều bệnh khác cũng gây ra vảy, và nếu dùng thuốc chống nấm mà chưa có chẩn đoán xác định sẽ làm cho các bác sĩ da liễu tiếp sau chẩn đoán gặp nhiều khó khăn. Nhìn chung, nhiễm nấm chỉ cần điều trị bằng thuôc bôi trừ khi có nhiễm nấm ở đầu hoặc ở sâu trong nang lông của mặt và thân mình. Thuốc chống nấm toàn thân vẫn được chọn dùng là griseofulvin, nhưng thay thuốc khác ngay khi mà bệnh nhân không chịu được thuốc hoặc không đáp úng điều trị khi đã dùng đủ liều, có thể dùng các azol như: ketoconazol, fluconazol, và itraconazol, ketoconazol ngày nay được dùng để điều trị tất cả các trường hợp nhiễm candida, bệnh nấm coccidoides, bệnh nấm histoplasma, bệnh nấm chromoblastomyces và paracoccidiodes. Chúng cũng được chỉ định cho các trường họp nhiễm nấm mà không đáp ứng với thuốc bôi hoặc griseofulvin toàn thân hoặc bệnh nhân không thể uống griseofulvin. Điều đáng quan tâm chủ yếu đôi với ketoconazol là thuôc gây bất bình thường đối với các men củâ gan, gây vú to, buồn nôn và mày đay. Fluconazol có thể thay thế ketoconazol. Có 1/10.000 - 1/15.000 người dùng thuôc có thể gầy gan nhiễm mỡ sau khi dùng ketoconazol. Phải bảo bệnh nhân ngừng thuốc ngay khi có biểu hiện buồn nôn, khó tiêu, nước tiểu có màu đen, phân mầu đất sét hoặc vàng da, thế nhưng điều này có thể không làm ngừng được tiến triển của viêm gan. Viêm gan có thể xuất hiện sớm ngay sau 2 tuần dùng thuốc. Nhiều bệnh nhân có rối loạn nhẹ các xét nghiệm hơn là các triệu chứng. Chứng vú to có thể tránh được bằng cách dùng tổng liều thuốc trong ngày 1 lần. Tốt nhất là tránh không cho > 200mg/ngày (một viên) nếu có thể. Nói chung, dùng ketoconazol là lành tính, dù nguy cơ gây viêm gan thấp, nó cũng nên được xem bởi sự nghiêm trọng của bệnh và sự có lợi của việc thay đổi thuốc khác an toàn hơn.

Itraconazol, một loại azol chống nấm khác, hiện nay đang được dùng ở Mỹ cho nhiễm nấm sau histoplasma và blastomyces. Tuy nhiên, có nhiều bằng chứng cho rằng loại thuốc này củng rất có hiệu lực chống các loại nấm nông, đặc biệt là nấm móng, vì nó nhanh chóng được tích luỹ ở móng từ nền móng và chất cơ bản của móng và tồn tại hàng tháng sau khi uống thuốc và không được uống tiếp. Giống như ketoconazol, iaraconazol có thể liên quan với viêm gan đặc ứng.

Fluconazol là một loại thuốc chống nấm khác có tác dụng chữa bệnh nấm candida da và niêm mạc. Kinh nghiệm dùng loại thuốc này còn quá ít để nói về cách dùng.

Biện pháp và cách phòng bệnh

Nên giữ cho da luôn luôn khô, vì da ẩm ướt rất thuận lợi cho nấm phát triển. Lau khô da cẩn thận sau khi tắm và khi ra quá nhiều mồ hôi, và để cho nó khô 10 - 15 phút trước khi mậc quần áo, hoặc dùng sấy tóc với tốc độ nhỏ. Nên khuyên mặc quần áo lót rộng. Tất nên thay thường xuyên khi ra nhiều mồ hôi. Nếu có thể nên đi loại giày hở chân hoặc xăng đan. Nếu kiểm soát, chất tiết của da bằng bột tan hoặc các bột làm khô khác hoặc thấm khô. Việc dùng thuốc bôi steroid cho các bệnh khác có thể gây biến chứng nhiễm nấm, và thuốc bôi chống nấm thường được dung kết hợp ở vùng kẽ khi cần bôi steroid để tránh bội nhiễm nấm.

Bài viết cùng chuyên mục

Nấm tay và chân

Nấm ở chân là loại bệnh da cấp hoặc mạn tính hay gặp. Một số cá thể hay bị bệnh hơn người khác. Hầu hết các trưồng hơn đều do Trichophyton và Epidemophyton gây nên.

Viêm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bằng cách luôn giữ cho vùng kẽ đó sạch, khô, và đắp các dung dịch mang lại hiệu quả cao. Nếu tìm thấy bào tử nấm hoặc vi khuẩn, thì phải bôi imidazol chống nấm dạng dung dịch, hoặc bột.

Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy

Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.

Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.

Chai chân: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bao gồm sửa lại cho đúng các bất thường cơ học gây ra ma xát và tỳ đè. Phải đi giày vừa và điều chỉnh lại các biến dạng chỉnh hình.

Những hình thái bất thường của móng

Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.

Nhọt và nhọt độc

Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.

Các thương tổn ở da do động vật chân đốt

Trong các kẽ hở của giường và đồ gỗ, các vết cắn có xu hướng theo đường thẳng hoặc thành đám. Mày đay sẩn là một tổn thương đặc trưng cho các vết cắn của rệp.

Ngứa ở vùng hậu môn sinh dục

Ở phụ nữ ngứa hậu môn đơn thuần rất hiếm còn ngứa âm hộ không phải lúc nào cũng đi kèm ngứa vùng hậu môn, mặc dù ngứa hậu môn thì thường lan tới âm hộ.

Rụng tóc hói: chẩn đoán và điều trị

Rụng tóc do sẹo thường là rụng tóc vĩnh viễn và không thay đổi được. Không có thuốc nào có thể chữa được trừ khi phẫu thuật cấy tóc.

Một số bệnh da có bọng nước

Các bọng nước xuất hiện đầu tiên ở vùng quanh rốn và có thể có các mảng hoặc các nốt đỏ, mụn nước và bọng nước lớn.

Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch

Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.

Viêm nang lông

Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.

Viêm da do ánh nắng

Phản ứng viêm da cấp tính, nếu đủ nặng thường kèm theo đau, triệu chứng đường ruột, khó chịu và thậm chí kiệt sức, điều này ít xẩy ra.

Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt

Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.

Luput ban đỏ dạng đĩa mạn tính

Khi ANA dương tính với hiệu giá cao, hoặc hình ảnh lâm sàng gợi có thương tổn nội tạng, có kháng thể chống ADN chuỗi kép và giảm bổ thể trong máu sẽ nghĩ tới luput ban đỏ hệ thống.

Bệnh chấy rận

Nhiễm rận ở mu rất ít thấy, đặc biệt dễ gặp ở những người lông rậm; thậm chí có thể tìm thấy rận ở lông mi và ở da đầu.

Bớt bẩm sinh, bớt loạn sản, bớt xanh

Một lần nữa, ta cần nhấn mạnh mục tiêu của các bác sĩ không chuyên khoa là xác định được các bớt không bình thường chứ không cần thiết phải xác định đây là loại bớt gì.

Chốc: thương tổn ướt có vảy

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn lâm sàng là các dát, mụn nước, bọng nước, mụn mủ, và vảy tiết màu vàng sáp ong dính. Khi cậy bỏ vảy sẽ để lại vết trợt màu đỏ.

Các thương tổn sắc tố da

Những bớt nghi ngờ là những bớt có bờ không đều, không đối xứng hoặc bờ có tua là nơi mà sắc tố thường phát triển lan ra cả phần da bình thường quanh nó.

Chàm thể tạng: bệnh da có vảy

Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.

Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.

Viêm da dị ứng tiếp xúc

Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.

Tổ đỉa: chẩn đoán và điều trị

Các mụn nước trong, nhỏ, nằm rải rác ở hai bên của các ngón tay và ở lòng bàn tay, lòng bàn chân. Trông giống như hạt gạo tròn trong bột sắn. Các thương tổn này có thể rất ngứa.

Ghẻ: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.