Nhiễm nấm ở da
Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Theo cổ điển, nhiễm nấm ở da được chia làm 2 nhóm cơ bản là nhiễm nấm nông và nấm sâu. Ở chương này, chúng ta chỉ thảo luận nhiễm nấm nông: nấm tóc, nấm thân, và nấm kẽ, nấm ở tay, ở chân, nấm móng và nấm lang ben.
Việc chẩn đoán nhiễm nấm ở da thường dựa vào vị trí và đặc điểm của thương tổn và dựa vào 2 xét nghiệm cơ bản dưới đây:
(1) Tìm nấm trực tiếp trong KOH 10% hoặc KOH 20% trong DMSO từ những thương tổn nghi ngờ. “Nếu có vảy, hãy cạo nó” là châm ngôn để thực hiện.
(2) Nuôi cây nấm. Sự đáp ứng của nấm da với griseofulvin có thể xác định bằng sự thay đổi màu từ màu vàng thành màu đỏ trong môi trường cấy nấm, hoặc chúng ta có thể dùng nuôi cấy trên lam mà nó gây sự đổi màu cho phép chúng ta xác định trực tiếp dưới kính hiển vi.
(3) Khám bằng đèn Wood (là đèn cực tím với kính lọc đặc biệt), nó làm cho tóc phát quang màu xanh sáng nếu có nhiễm nấm microsporum, đây là một xét nghiệm có giá trị. Tuy nhiên, vì hầu hết nhiễm nấm ở đầu không phải do microsporum nên phương pháp này ít khi dương tính, và khi âm tính thì không có ý nghĩa.
(4) Giải phẫu bệnh bằng kỹ thuật nhuộm (PAS) (periodic - acid - Schiff). Nấm sẽ có màu đỏ và dễ thây.
Phản ứng da và huyết thanh không có giá trị trong nhiễm nấm nông.
Nguyên tắc điều trị
Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân. Rất nhiều bệnh khác cũng gây ra vảy, và nếu dùng thuốc chống nấm mà chưa có chẩn đoán xác định sẽ làm cho các bác sĩ da liễu tiếp sau chẩn đoán gặp nhiều khó khăn. Nhìn chung, nhiễm nấm chỉ cần điều trị bằng thuôc bôi trừ khi có nhiễm nấm ở đầu hoặc ở sâu trong nang lông của mặt và thân mình. Thuốc chống nấm toàn thân vẫn được chọn dùng là griseofulvin, nhưng thay thuốc khác ngay khi mà bệnh nhân không chịu được thuốc hoặc không đáp úng điều trị khi đã dùng đủ liều, có thể dùng các azol như: ketoconazol, fluconazol, và itraconazol, ketoconazol ngày nay được dùng để điều trị tất cả các trường hợp nhiễm candida, bệnh nấm coccidoides, bệnh nấm histoplasma, bệnh nấm chromoblastomyces và paracoccidiodes. Chúng cũng được chỉ định cho các trường họp nhiễm nấm mà không đáp ứng với thuốc bôi hoặc griseofulvin toàn thân hoặc bệnh nhân không thể uống griseofulvin. Điều đáng quan tâm chủ yếu đôi với ketoconazol là thuôc gây bất bình thường đối với các men củâ gan, gây vú to, buồn nôn và mày đay. Fluconazol có thể thay thế ketoconazol. Có 1/10.000 - 1/15.000 người dùng thuôc có thể gầy gan nhiễm mỡ sau khi dùng ketoconazol. Phải bảo bệnh nhân ngừng thuốc ngay khi có biểu hiện buồn nôn, khó tiêu, nước tiểu có màu đen, phân mầu đất sét hoặc vàng da, thế nhưng điều này có thể không làm ngừng được tiến triển của viêm gan. Viêm gan có thể xuất hiện sớm ngay sau 2 tuần dùng thuốc. Nhiều bệnh nhân có rối loạn nhẹ các xét nghiệm hơn là các triệu chứng. Chứng vú to có thể tránh được bằng cách dùng tổng liều thuốc trong ngày 1 lần. Tốt nhất là tránh không cho > 200mg/ngày (một viên) nếu có thể. Nói chung, dùng ketoconazol là lành tính, dù nguy cơ gây viêm gan thấp, nó cũng nên được xem bởi sự nghiêm trọng của bệnh và sự có lợi của việc thay đổi thuốc khác an toàn hơn.
Itraconazol, một loại azol chống nấm khác, hiện nay đang được dùng ở Mỹ cho nhiễm nấm sau histoplasma và blastomyces. Tuy nhiên, có nhiều bằng chứng cho rằng loại thuốc này củng rất có hiệu lực chống các loại nấm nông, đặc biệt là nấm móng, vì nó nhanh chóng được tích luỹ ở móng từ nền móng và chất cơ bản của móng và tồn tại hàng tháng sau khi uống thuốc và không được uống tiếp. Giống như ketoconazol, iaraconazol có thể liên quan với viêm gan đặc ứng.
Fluconazol là một loại thuốc chống nấm khác có tác dụng chữa bệnh nấm candida da và niêm mạc. Kinh nghiệm dùng loại thuốc này còn quá ít để nói về cách dùng.
Biện pháp và cách phòng bệnh
Nên giữ cho da luôn luôn khô, vì da ẩm ướt rất thuận lợi cho nấm phát triển. Lau khô da cẩn thận sau khi tắm và khi ra quá nhiều mồ hôi, và để cho nó khô 10 - 15 phút trước khi mậc quần áo, hoặc dùng sấy tóc với tốc độ nhỏ. Nên khuyên mặc quần áo lót rộng. Tất nên thay thường xuyên khi ra nhiều mồ hôi. Nếu có thể nên đi loại giày hở chân hoặc xăng đan. Nếu kiểm soát, chất tiết của da bằng bột tan hoặc các bột làm khô khác hoặc thấm khô. Việc dùng thuốc bôi steroid cho các bệnh khác có thể gây biến chứng nhiễm nấm, và thuốc bôi chống nấm thường được dung kết hợp ở vùng kẽ khi cần bôi steroid để tránh bội nhiễm nấm.
Bài viết cùng chuyên mục
Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy
Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.
Loét da do tỳ đè
Nếu vết loét lan rộng rất nhanh có thể là loét của viêm da mủ hoại tử kết hợp với bệnh viêm đường ruột.
Rụng tóc hói: chẩn đoán và điều trị
Rụng tóc do sẹo thường là rụng tóc vĩnh viễn và không thay đổi được. Không có thuốc nào có thể chữa được trừ khi phẫu thuật cấy tóc.
Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt
Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.
Nấm tay và chân
Nấm ở chân là loại bệnh da cấp hoặc mạn tính hay gặp. Một số cá thể hay bị bệnh hơn người khác. Hầu hết các trưồng hơn đều do Trichophyton và Epidemophyton gây nên.
Liken phẳng: chẩn đoán và điều trị
Một dạng đặc biệt của liken phẳng là các dạng trợt. Trên lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân nó có thể làm mất khả năng hoạt động.
Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.
Trứng cá thường
Bệnh hay gặp hơn và cũng thường nặng hơn ở nam giới. Trái với quan niệm của dân chúng, bệnh không tự khỏi khi trưởng thành. Nếu không được điều trị, bệnh tồn tại đến tuổi 40, 50 hoặc thậm chí tuổi 60.
Bệnh vảy nến
Bệnh vảy nến là một bệnh viêm da cấp hoặc mạn, hay gặp, lành tính, có tính chất di truyền. Có một số yếu tố trung gian gây bệnh như polyamine, protease, CAMP, các yếu tố phát triển như TGFa và leukotrien.
Vảy phấn hồng Gibert
Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.
Trứng cá đỏ
Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.
Hạt cơm: chẩn đoán và điều trị
Một số tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng.
Bệnh Zona: chẩn đoán và điều trị
Bệnh zona là một bệnh da có bọng nước cấp tính do virus mà virus có hình thái giống như virus thủy đậu. Bệnh thường gặp ở người lớn. Hầu hết bệnh nhân chỉ bị zona một lần.
Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu
Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.
Chàm thể tạng: bệnh da có vảy
Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.
Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị
Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.
Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch
Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.
Nấm thân hoặc nấm hình vòng
Xét nghiệm nấm dương tính đã phân biệt được bệnh nấm thân với các thương tổn có hình tròn khác như vảy nến, luput đỏ, giang mai, họng ban đa dạng và vảy phấn hồng Gibert.
Bệnh Bowen và bệnh Paget
Bệnh tiến triển lành tính, nhưng khi những thương tổn này phát triển thành ung thư tế bào gai xâm lấn, thì cắt bỏ hoặc chỉ định phương pháp điều trị khác.
Ghẻ: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.
Rối loạn sắc tố da
Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.
Bệnh nấm candida da và niêm mạc
Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum.
Lang ben: chẩn đoán và điều trị
Dát nhạt màu cần chẩn đoán phân biệt với bạch biến, dựa vào sự xuất hiện các thương tổn. Bạch biến thường khu trú ở vùng quanh hốc tự nhiên và đầu ngón tay.
Bệnh dày sừng do ánh nắng
Phương pháp điều trị nhanh và có hiệu qủa là dùng nitơ lỏng. Thương tổn bị đông lạnh sau vài giây khi dùng tăm bông nhúng trong nitơ lỏng hoặc bằng phương pháp phun.
Bệnh mày đay và phù mạch
Bệnh mày đay có thể được gây nên bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ chế bệnh sinh có thể do cơ chế miễn dịch hoặc không do cơ chế miễn dịch.