- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh da và phần phụ
- Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da
Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da
Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Trị liệu bằng thuốc bôi
Nói chung, tốt hơn hết là chúng ta nên thật thông thạo một vài loại thuốc và phương pháp điều trị hơn là chúng ta sử dụng thật nhiều lọại. Thêm vào đó là không phải tất cả các chất thuốc gốc dùng bôi ngoài da đều tương đương, như các biệt dược được sản xuất về hiệu lực và về các phụ dược "trơ" có trong công thức thuốc có thể gây dị ứng hoặc gây kích thích da. Chúng ta nên ghi nhớ, tất cả những điều trên khi đánh giá về tác dụng phụ và hiệu lực của thuốc. Khi nghi ngờ về phương pháp điều trị, chúng ta nên dùng liều nhỏ, hơn là dùng quá liều. Khi sử dụng thuốc bôi có chứa corticosteroid mạnh kéo dài, không đúng phương pháp mà không được theo dõi, có thể gây tác dụng phụ không thể đảo ngược được.
Những biến chứng của của trị liệu bằng thuốc bôi
Những biến chứng của trị liệu bằng thuốc bôi có thể tránh được phần lớn bằng cách sử dụng đúng.
Dị ứng
Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.
Kích thích da
Các thuốc pha chế thuộc nhóm Acid retinoic, Benzoyl peroxid, và các thuốc chữa trứng cá khác nên được dùng một cách phù hợp và đúng chỉ dẫn. Dùng đi dùng lại lindan và các loại xà phòng kháng khuẩn có thể gây kích thích da. Podophyllum cũng có thể rất gây kích thích da; Kem chống nắng có yếu tố chống nắng cao cũng có thể gây kích thích da ở một vài bệnh nhân.
Sự hấp thu
Thuốc có thể bị hấp thu qua da, đặc biệt là vùng da gần niêm mạc, qua vùng da bị xây xước hoặc vùng da bị viêm, hoặc từ vùng da được băng bịt. Nói chung liều hấp thu vào cơ thể ở trẻ em nhiều gấp 3 lần so với người lớn. Chúng ta nên nhớ rằng không được dùng Podophyllum resin cho phụ nữ có thai. Lindan không được dùng cho phụ nữ có thai và trẻ em, nó có thể được thay thế bằng kem Permethrin 5% ở trẻ em, và đối với phụ nữ có thai, có thể thay bằng Permethrin hoặc Sulfua kết tủa. Những chất có chứa phenol chống chỉ định dùng ở vùng bị da bị xây xước hoặc niêm mạc của trẻ em. Sử dụng thiếu cân nhắc các thuốc bôi loại corticosteroid mạnh và trung bình với số lượng lớn, hoặc dùng thời gian quá dài, đặc biệt là băng bịt thuốc bằng nilon có thể gây ra hậu quả đáng chú ý như hấp phụ qua đường toàn thân, hậu quả hiếm gặp là suy thượng thận - yên và hoại tử xương vô khuẩn.
Dùng quá liều
Thuốc bôi corticosteroid có thể gây các thương tổn giống trứng cá ở trên mặt (trứng cá đỏ do steroid), gây teo da và rạn da ở các nếp da.
Biện pháp điều trị được sử dụng thường xuyên
Biện pháp chung
Xà phòng và những chất tẩy rửa chỉ nên dùng ở vùng nách, bẹn và chân của những người có da khô và da dễ bị kích thích. Trừ những người mà nghề của họ phải tiếp xúc với dầu mỡ và chất dơ bẩn, hầu hết chúng ta không nhất thiết phải dùng xà phòng trên toàn bộ bề mặt của dạ, và khi nắm được kiến thức như vậy họ sẽ sử dụng tuân theo những giới hạn này hơn là cấm hoàn toàn dùng xà phòng. Tạm với nước có thêm một ít dầu tắm có thể được, nhưng nó kém hiệu quả hơn là bôi dầu ngay sau khi tắm.
Biện pháp tại chỗ
Corlicosteroid
Các đại diện thuốc corticosteroid bôi như: dạng kem, dung dịch, dạng mỡ, dạng gel; dạng phun được trình bày trong bảng. Chúng cơ bản có lợi trong điều trị các bệnh viêm da có ngứa. Việc pha chế thuốc theo nguyên tắc chung sau: trung bình cứ 20 - 30g bôi một lần toàn bộ bề mặt da của người lớn.
Loại có tác dụng nhẹ:
Hydrocortison.
Desonid.
Alcloinetason dịpropionat.
Loại này dùng tốt nhất cho các vùng mặt, bẹn, và các nếp gấp của da và dùng mạn tính. Tuy nhiên nếu dùng kéo dài, không có giám sát thì Desonid có thể gây tác dụng phụ ở một số bệnh nhân.
Loại có tác dụng trung bình:
Flurandrenolid.
Fluocinolon.
Triamcinolon.
Hydrocortison valerat.
Hydrocortison butyrat.
Betamethason valerat.
Mometason furoat ..vv
Loại có tác dụng mạnh:
Desoximetason.
Amcinonid.
Halcinonid.
Fluocinoniđ.
Betamethason dipropionat …vv
Loại có tác dụng rất mạnh:
Betamethason dipropionat trong điều kiện tối ưu.
Diflorason.
Clobetason.
Halobetason.
Loại này chỉ nên dùng trong một giai đoạn ngắn, ở vùng thương tổn khu trú, và cũng giống như loại steroid mạnh và trung bình, không được dùng cho các vùng mặt, ngực, bộ phận sinh dục, và các nếp gấp của da.
Tác dụng của kem bôi corticosteroid
Bằng cách bôi có chọn lọc lên các thương tổn của vảy nến, hoặc liken phẳng hoặc chàm vào các buổi tối, thời gian đầu bôi corticosteroid loại có tác dụng nhẹ rồi được băng bịt lại bằng giấy bóng kính mỏng, sau đó nồng độ của thuốc bôi steroid sẽ được tăng dần lên. Đối với đỏ da toàn thân do vảy nến hoặc chàm thể tạng có thương tổn lan rộng thì điều trị bằng cách băng bịt một cách thích hợp có thể mang lại kết quả tốt. Tuy nhiên có một số tác dụng phụ như hạt kê, rạn da, viêm da mủ, teo da tại chỗ, có mùi hôi và bội nhiễm nấm. Rất hiếm gây suy thượng thận khi băng bịt một vùng rộng của da. Clobetason và Halobetason không nên băng bịt.
Giữ ẩm cho da
Có thể dùng các chất sau: Pétrolatum, dầu mỏ, Aquaphor, hoặc kem Eucerin. Nếu như da quá khô có thể làm cho da ẩm, như tắm để làm ướt lớp keratin, và sau khi thấm khô bằng khăn nên bôi một trong các chất trên để giữ cho da ẩm. Dầu mỏ phải bôi ngay khi da còn ướt. Không nên chà xàt da làm thương tổn tới cảc nang lông gây viêm nang lông mà chỉ nên lau nhẹ theo một chiều nhất định. Nếu da trở nên quá nhờn sau khi bôi thuốc thì nên dùng khăn ẩm thấm khô.
Trong một số trường hợp, các dung dịch như Lubriderm, Natraderm, Eucerin, và Moisturel có thể rất tốt vì chúng không gây nhờn quá như các loại mỡ và kem. Có thể gây ngứa, khô da và bệnh vẩy cá khi dùng dung dịch Lactat 12% (Lac-Hydrin) hay dung dịch glycolic acid (OTC) ở những vùng không viêm.
Các chất làm khô da
Nếu như da trở nên rỉ nước do viêm hoặc nhiễm khuẩn thì việc làm cho da khô là rất cần thiết. Chất làm khô da tốt nhất là nước và đắp liên tục, có hoặc không có thêm các chất như muối nhôm (dung dịch Burow, viên Domeboro), keo bột yến mạch là bước ban đầu tốt, các dung dịch hồ như hồ nước và bột có thể gây vảy bẩn khi dùng các thuốc này không đúng nguyên tắc.
Thuốc bôi chống ngứa không đặc hiệu
Dung dịch chứa 0,5% camphor, menthol và phenol giảm ngứa rất có hiệu quả trong những trường hợp ngứa nhẹ.
Pramoxin hydroclorid 1% loại dung dịch hoặc kem.
Pramoxin hydroclorid 1% với 5% menthol.
Hai thuốc này có tác dụng giảm ngứa nhờ tác dụng gầy tê bề mặt của nó.
Hydrocortison 1% hoặc 2,5% cũng có tác dụng giảm ngứa.
Thuốc chống ngứa toàn thân
Kháng Histamin:
Nói chung, thuốc chặn H1 là thuốc được chọn để chống ngứa do histamin gây nên, ví dụ như bệnh mày đay. Mặc dù tác dụng giảm ngứa của chúng là do tác dụng an thần chứ không phải do tác dụng kháng histamin. Các nhóm khác nhau có tác dụng an thần khác nhau, nhóm kháng histamin thế hệ hai có tác dụng an thần kém thì tác dụng giảm ngứa cũng yếu. I
Theo cổ điển kháng histamin H1 được chia làm 6 nhóm:
Alkylamin (Chlorpheniramin và Dexchlorpheniramin) là nhóm dó tác dựng an thần kém nhất.
Ethanolamin (diphenhydramin)Ịà nhóm có tác dụng an thần mạnh.
Phenothiazin (promethazin) cũng là nhóm có tác dụng mạnh.
Piperazin (hydroxyzin).
Ethylenediamin (tripelennamin).
Ba nhóm cuối có tác dụng an thần kém hơn.
Ba thuốc kháng histamin ít gây ngủ là Loratadin, Terfenadin, và Astemizol. Một số thuốc chống trầm cảm như Doxepin cũng có tác dụng kháng, histamin và có lợi trong điều trị mày đay.
Thuốc tâm thần:
Một số thuốc an thần, thuốc chống trầm cảm và một số thuốc tâm thần khác có tác dụng giảm ngứa rất tốt nhưng phải được các bác sĩ chuyên khoa theo dõi cẩn thận.
Corticosteroid toàn thân.
Kem chống nắng
Che chở da khỏi ảnh hưởng của các tia cực tím nên bắt đầu ngay sau khi được sinh ra. Sự khắc sâu các quan điểm kiến thức về tắm nắng là một mục tiêu quan trọng trong y tế cộng đồng, ở người có da trắng, nắng có thể gây bệnh dày sừng ánh nắng, bớt, ung thư tế bào gai, ung thư tế bào đáy và ung thư sắc tố. Phương pháp bảo vệ tốt nhất là che nắng, ngoài mặc quần áo còn cần tránh náng chiếu trực tiếp vào 5 giờ cao điểm trong ngày, siêng năng dùng kem chống nắng khi ra nắng là rất quan trọng. Các ước tính cho rằng những trẻ em có nước da trắng cần dùng kem chống nắng thường xuyên, sự xuất hiện ung thư da trong cuộc đời của chúng có thể sẽ được giảm khoảng 75%.
Có một số kem chống nắng có hiệu quả cao rất có giá trị. Người có nước da trắng nên dùng kem chống nắng có số yếu tố chống nắng cao (SPF: Sun Protective factor) ít nhất là 15 có thể tới 30 - 40. Đối với những người nhạy cảm với PABA (p - aminobenzoic acid) thì nên dùng các loại kem chống nắng không có chứa PABA như: Neutrogena SPF 15, Solbar SPF 15, TI - Screen SPF 15, Presun 29. Loại kem Solbar PF (không chứa PABA) có SPF là 50, rất thuận tiện. Kem chống nắng có SPF > 25 không những chống được UVA mà còn chống được UVB và rất có lợi trong việc giảm các rối loạn do ánh nắng gây ra. Nhiều loại mỹ phẩm như dầu che chở UV của Olay, có chứa chất chống nắng với SPF là 15 trong chất cơ bản, không gây nhờn, phù hợp để dùng ban ngày. Kem chống nắng đục nên chứa Titanium dioxid, vì oxid kẽm đơn thuần là chất có tác dụng chống nắng ít.
Bài viết cùng chuyên mục
Những hình thái bất thường của móng
Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.
Vảy phấn hồng Gibert
Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.
Nhọt và nhọt độc
Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.
Viêm da dạng herpes
Bệnh nhân có viêm ruột nhạy cảm với gluten, nhưng đôi với phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng.
Viêm kẽ: chẩn đoán và điều trị
Điều trị bằng cách luôn giữ cho vùng kẽ đó sạch, khô, và đắp các dung dịch mang lại hiệu quả cao. Nếu tìm thấy bào tử nấm hoặc vi khuẩn, thì phải bôi imidazol chống nấm dạng dung dịch, hoặc bột.
Rụng tóc hói: chẩn đoán và điều trị
Rụng tóc do sẹo thường là rụng tóc vĩnh viễn và không thay đổi được. Không có thuốc nào có thể chữa được trừ khi phẫu thuật cấy tóc.
Chẩn đoán các bệnh lý da
Tiền sử cũng rất quan trọng trong việc đánh giá sự thất bại trong điều trị. Đối với chuyên khoa ngoài da, trong phần tiền sử này cần có chi tiết cụ thể về cách bệnh nhân đã sử dụng các thuốc bôi như thế nào.
Lang ben: chẩn đoán và điều trị
Dát nhạt màu cần chẩn đoán phân biệt với bạch biến, dựa vào sự xuất hiện các thương tổn. Bạch biến thường khu trú ở vùng quanh hốc tự nhiên và đầu ngón tay.
Liken phẳng: chẩn đoán và điều trị
Một dạng đặc biệt của liken phẳng là các dạng trợt. Trên lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân nó có thể làm mất khả năng hoạt động.
Ung thư tế bào gai
Cần phải khám da và dùng các liệu pháp điều trị như đối với bệnh ung thư tế bào đáy. Cắt bỏ là cách điều trị được dùng nhiều đối với ung thư tế bào đáy.
Bớt bẩm sinh, bớt loạn sản, bớt xanh
Một lần nữa, ta cần nhấn mạnh mục tiêu của các bác sĩ không chuyên khoa là xác định được các bớt không bình thường chứ không cần thiết phải xác định đây là loại bớt gì.
Ung thư sắc tố
Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.
Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị
Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.
Bệnh chấy rận
Nhiễm rận ở mu rất ít thấy, đặc biệt dễ gặp ở những người lông rậm; thậm chí có thể tìm thấy rận ở lông mi và ở da đầu.
Tàn nhang và nốt ruồi, dày sừng da mỡ
Những thương tổn này thường tăng số lượng tế bào sắc tố, và chúng không bị nhạt màu đi khi không còn tiếp xúc với ánh nắng, chúng được coi như tất cả các thường tổn sắc tố khác.
Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.
Bệnh Bowen và bệnh Paget
Bệnh tiến triển lành tính, nhưng khi những thương tổn này phát triển thành ung thư tế bào gai xâm lấn, thì cắt bỏ hoặc chỉ định phương pháp điều trị khác.
Loét da do tỳ đè
Nếu vết loét lan rộng rất nhanh có thể là loét của viêm da mủ hoại tử kết hợp với bệnh viêm đường ruột.
Bệnh nấm candida da và niêm mạc
Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum.
Trứng cá đỏ
Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.
Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy
Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.
Viêm da thần kinh: liken thường mạn tính
Cách giải thích cổ điển về viêm da thần kinh là biểu hiện một chu kỳ ngứa gãi tự hết, nhưng không có bằng chứng cho rằng đây là nguyên nhân duy nhất gây nên do thói quen của bệnh nhân.
Nhiễm nấm ở da
Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.
Nấm tóc: chẩn đoán và điều trị
Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm.
Viêm da do ánh nắng
Phản ứng viêm da cấp tính, nếu đủ nặng thường kèm theo đau, triệu chứng đường ruột, khó chịu và thậm chí kiệt sức, điều này ít xẩy ra.