Nấm tóc: chẩn đoán và điều trị

2016-06-14 11:09 AM

Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán

Vẩy giống vảy của viêm da tiết bã nhờn.

Thương tổn giống chốc với vảy tiết và đỏ da.

Vùng tóc rụng có chấm đen là nơi tóc gãy.

Kerion hoặc các u viêm.

Có viêm hạch lym pho ngay cả khi thương tổn ở đầu còn khó thấy.

Nuôi cấy nấm dương tính.

Tỷ lệ người mang nấm mà không có triệu chứng trong dân số cao.

Đánh giá chung

Chúng ta đang ở giữa vùng dịch tễ của nấm tóc do Trichophyton tonsurans, đặc biệt là trẻ em ở châu Mỹ Phi, lứa tuổi 2 - 6 là lứa tuổi có nguy cơ mắc bệnh cao. Sự lây lan tăng lên trong số những người mang nấm mà không có triệu chứng, ở châu Mỹ Phi tỷ lệ là 15% trẻ em ở lứa tuổi đi học, và 30% người tiếp xúc trong gia đình không có triệu chứng mà nuôi cấy nấm dương tính. Rất không may là loại nấm T. tonsurans gây bệnh hiện nay không giống với Microsporutn audouini loại nấm gây bệnh trước đây phát huỳnh quang, chúng không phát được huỳnh quang khi chiếu đện Wood nên không chẩn đoán sàng lọc trong nhân dân được. Không giống nhiễm nấm ở các vị trí khác trên cơ thể, xét nghiệm tìm nấm bằng KOH chỉ có lợi khi tóc rụng ở một. vùng rộng. Nhưng rất may là nuôi cấy bằng phương pháp chải rất đơn giản và là một xét nghiệm rất nhạy.

Triệu chứng và dấu hiệu

Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm. Vảy có thể không xuất hiện do dùng sáp thơm ở tóc. Rụng tóc được xác định khi một vùng rộng tóc thưa hoặc không có tóc mà chi còn những chân tóc ngắn ("Nấm hạt đen"). Khi viêm mạnh hơn thì có thể có đỏ da, vảy tiết và mủ gợi nghĩ đến chốc. Biểu hiện lẫn lộn cả vảy tiết, rụng tóc và viêm nang lông là loại hay gặp. Tóc ở vùng rụng thì loạn dưỡng và gãy, hoặc keroin, là một đám mềm bùng nhùng cùng với vảy, mủ, và rụng tóc là loại nhiễm nấm hiện nay ít gặp nhất, chiếm khoảng 20% các trường hợp. Một vài bệnh nhân biểu hiện có nhiều u nhỏ.

Viêm hạch cổ có thể rát rầm rộ và không phù hợp với mức độ viêm ở đầu. Nấm ở thân có thể gập ở 15% trường hợp. Dát trắng có ranh giới rõ có thể thấy ở mặt. có thể để lại sẹo ở nấm kerion hoậc có nhiễm khuẩn thứ phát.

Xét nghiệm

Cạo vảy từ thương tổn để kiểm tra trong KOH có thể thấy sợi nấm hoặc các chuỗi bào tử nấm trong sợi tóc loạn dưỡng. Tất cả bệnh nhân phải tìm thấy nấm bằng KOH hoặc nuôị cấy trước khi cho điều trị. Không thấy nấm bằng soi tươi trong KOH không loại trừ được nhiễm nấm, ở thương tổn kerion tìm nấm bằng phương pháp soi tươi trong KOH ít khi thấy. Có thể nuôi cấy bằng phương pháp dùng bàn chải đánh răng không vô khuẩn chải 4 - 5 vị trí trên da đầu mà không gây phiền phức cho bệnh nhân, sau mỗi vị trí đều ấn bàn chải lên môi trường nuôi cấy nấm (dùng bình miệng rộng hoặc đìa nuôi cấy). Nếu như không có bàn chải cho binh miêng rộng, có thể dùng bàn chải tế bào để phết Papanicolaou.

Chẩn đoán phân biệt

Nấm tóc có thể giống viêm da tiết bã nhờn, nhưng ít gặp ở trẻ 2 - 8 tuổi, ở lứa tuổi này, viêm da tiết bã nhờn coi là nấm tóc cho đến khi nguyên nhân khác được xác định. Thương tổn có thể giống chốc và nuôi cấy có thể tìm thấy tụ cầu. Bệnh nhân thường không được điều trị kháng sinh một cách đúng đắn và hầu hết các trường hợp khỏi do dùng thuốc chống nấm đơn thuần.

Vảy da trên đầu gây ra bởi chàm thể tạng thường kết hợp với thương tổn lan tỏa và nặng và ít khi chỉ có thương tổn ở đầu. Bệnh vẩy phấn amian thường biếu hiện bằng những mảng vảy dày và dính giống như chất amian. Bệnh vẩy phấn amian là bệnh không rõ nguyên nhân, có tính chất tạm thời và có khi là triệu chứng báo trước của vảy nến. Vảy dày có thể nghĩ tới vảy nến. Nấm tóc thành mảng do nấm hạt đen có thể nghĩ đến rụng tóc mảng nhẵn, nhưng nấm tóc không bao giờ "rụng trơn tru như mông trẻ con" như được mô ta trong rụng tóc mảng. Những vùng tóc rụng và tóc gẫy có thể nghĩ tới thói giật nhổ râu tóc. Bệnh da do tế bào Langerhans và tổ chức bào (Langerhans cell Histiocytosis) có thể nhầm với nấm tóc. Bệnh nhân nên được gửi đi làm sinh thiết hạch vì bệnh biểu hiện ở cả hạch và dưới da. Ở mỗi trường hợp nghi ngờ nên làm xét nghiệm nuôi cấy nấm để xác định chẩn đoán.

Phòng bệnh

Nấm tóc rất khó phòng vì bào tử nấm có nhiều trong không khí và ty lệ người lành mang bệnh trong cộng đồng cao. Không có phương pháp khử bào tử nấm có trong môi trường mà nấm tồn tại ở khấp nơi, ở tất cả các đồ vật có trong gia đình.

Cách ly bệnh nhân trong thời gian điều trị là không đúng vì có quá nhiều trường hợp không được chẩn đoán trong tập thể.

Có một vài bước tiến hành để phòng tái phát cho bệnh nhân là phát hiện và điều trị những trường họp nhiễm nấm ở súc vật và những người tiếp xúc trong gia đình. Shampoo povidon iodin dùng 2 lần/tuần trong 4 tuần có thể điều trị khỏi 90% những người lành mang nấm.

Điều trị

Biện pháp tại chỗ

Shampoo selenium 2,5% dùng 2 lần/tuần để làm giảm sự lan toả của bào tử nấm trong thời gian điều trị. Tác dụng của shampoo ketoconazol (Nizoral) vẫn chưa được nghiên cứu. Các loại kem và dung dịch bôi chống nấm không có hiệu quả trong điều trị ban đẩu.

Điều trị toàn thân

Hiện nay griseofulvin vẫn là loại thuốc được chọn để điều trị nấm vì nó không có tác dụng phụ đối với hệ nội tiết và không gây độc cho gan như ketoconazol. Sự trừ tiệt nấm yêu cầu phải dùng liều cảo hơn so với liều có trong đơn. Nên bắt đầu với liều 15mg/kg/ngày, nhưng thường dùng liều cao hơn khí cần thiết 20 - 25mg/kg/ngày. Và bệnh nhân phải được làm lại xét nghiệm nuôi cấy sau 6 tuần điều trị và 1 tháng sau khi ngừng thuốc. Sự đáp ứng điều trị thường chậm, đòi hỏi phải sau hơn 3 tháng hoặc điều trị lâu hơn. Phần lớn những bệnh nhân không có rụng tóc và các triệu chứng khác mà chỉ có vảy da ở đầu không tuân theo điều trị. Phản ứng sẩn thứ phát ở thân mình thường thấy vào ngày thứ 3 và có thể chẩn đoán nhầm là dị ứng thuốc, nhưng điều này rất ít xảy ra. Sự an toàn và hiệu lực của itraconazol đòi hỏi phải nghiên cứu kiểm soát, nhưng với liều 100mg/ngày trong 5 tuần điều trị, thì 93% bệnh nhân khỏi được công bố trong một nghiên cứu dở dang. Itraconazol không có hiệu lực khi thuốc ở dạng dịch treo, và dạng con nhộng không được mở ra để thuốc trong viên nhộng ngấm vào thức ăn.

Prednison với liều 1mg/kg/ngày có thể được dùng trong điều trị kerion, kết hợp với griseofulvin uống. Chúng ta nên nuôi cấy bệnh phẩm lấy ở 4 - 5 vị trí trên da đầu củạ cha mẹ và, anh chị em của bệnh nhân nếu tái phát sau điều trị.

Tiên lượng

Các tác giả cho rằng nấm tóc lớn có thể tự thuyên giảm khi trưởng thành, nhưng vì nấm vẫn tồn tại, nên họ cần phải được điều trị khi bệnh đã xác định.

Bài viết cùng chuyên mục

Viêm da thần kinh: liken thường mạn tính

Cách giải thích cổ điển về viêm da thần kinh là biểu hiện một chu kỳ ngứa gãi tự hết, nhưng không có bằng chứng cho rằng đây là nguyên nhân duy nhất gây nên do thói quen của bệnh nhân.

Lang ben: chẩn đoán và điều trị

Dát nhạt màu cần chẩn đoán phân biệt với bạch biến, dựa vào sự xuất hiện các thương tổn. Bạch biến thường khu trú ở vùng quanh hốc tự nhiên và đầu ngón tay.

Trứng cá đỏ

Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.

Viêm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bằng cách luôn giữ cho vùng kẽ đó sạch, khô, và đắp các dung dịch mang lại hiệu quả cao. Nếu tìm thấy bào tử nấm hoặc vi khuẩn, thì phải bôi imidazol chống nấm dạng dung dịch, hoặc bột.

Các thương tổn ở da do động vật chân đốt

Trong các kẽ hở của giường và đồ gỗ, các vết cắn có xu hướng theo đường thẳng hoặc thành đám. Mày đay sẩn là một tổn thương đặc trưng cho các vết cắn của rệp.

Ung thư sắc tố

Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.

Vảy phấn hồng Gibert

Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.

Ban nấm da: dị ứng hoặc nhạy cảm với nấm

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn cơ bản là từng nhóm mụn nước, thường khu trú ở mô cái và mô út. Đôi khi thương tổn khu trú ở mu bàn tay thậm chí có thể ở toàn thân.

Nhọt và nhọt độc

Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.

Viêm da do ánh nắng

Phản ứng viêm da cấp tính, nếu đủ nặng thường kèm theo đau, triệu chứng đường ruột, khó chịu và thậm chí kiệt sức, điều này ít xẩy ra.

Nấm kẽ: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn nấm kẽ khu trú hạn chế ở bẹn và kẽ mông và thông thường thương tổn tiến triển âm ỉ hơn nấm thân và nấm hình vòng. Bình thường ít thương tổn.

U mềm lây: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương có thể lan rộng do tự nhiễm. Trong hoạt động tình dục, chúng có thể giới hạn ở vùng sinh dục như dương vật, mu, và mặt trong đùi.

Viêm nang lông

Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.

Nấm thân hoặc nấm hình vòng

Xét nghiệm nấm dương tính đã phân biệt được bệnh nấm thân với các thương tổn có hình tròn khác như vảy nến, luput đỏ, giang mai, họng ban đa dạng và vảy phấn hồng Gibert.

Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da

Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.

Viêm tế bào: chẩn đoán và điều trị

Chẩn đoán phân biệt bao gồm viêm da tiếp xúc cấp ở một chi gây đỏ da, mụn nước và phù như trong viêm mô tế bào nhưng ngứa thay thế bằng triệu chứng đau.

Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.

Bệnh Zona: chẩn đoán và điều trị

Bệnh zona là một bệnh da có bọng nước cấp tính do virus mà virus có hình thái giống như virus thủy đậu. Bệnh thường gặp ở người lớn. Hầu hết bệnh nhân chỉ bị zona một lần.

Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch

Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.

Bớt bẩm sinh, bớt loạn sản, bớt xanh

Một lần nữa, ta cần nhấn mạnh mục tiêu của các bác sĩ không chuyên khoa là xác định được các bớt không bình thường chứ không cần thiết phải xác định đây là loại bớt gì.

Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu

Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.

Tàn nhang và nốt ruồi, dày sừng da mỡ

Những thương tổn này thường tăng số lượng tế bào sắc tố, và chúng không bị nhạt màu đi khi không còn tiếp xúc với ánh nắng, chúng được coi như tất cả các thường tổn sắc tố khác.

Hạt cơm: chẩn đoán và điều trị

Một số tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng.

Ghẻ: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.

Bệnh mày đay và phù mạch

Bệnh mày đay có thể được gây nên bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ chế bệnh sinh có thể do cơ chế miễn dịch hoặc không do cơ chế miễn dịch.