- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh da và phần phụ
- Một số bệnh da có bọng nước
Một số bệnh da có bọng nước
Các bọng nước xuất hiện đầu tiên ở vùng quanh rốn và có thể có các mảng hoặc các nốt đỏ, mụn nước và bọng nước lớn.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Có rất nhiều các rối loạn về da có biểu hiện sự hình thành bọng nước. Các bệnh này bao gồm dạng pemphigus bọng nước, dạng pemphigus sẹo, viêm da dạng herpes, herpes do thai nghén, và các rối loạn có bọng nước ít gặp khác bao gồm các bệnh bọng nước do cơ học tạo thành nhóm bệnh bong biểu bì mọng nước do sai sót trong quá trinh tổng hợp keratin biểu bì.
Dạng Pemyhigus bọng nước
Dạng pemyhigus bọng nước là một bệnh ngứa tương đối lành tính được đặc trưng bởi các bọng nước căng ở các vùng gấp nếp, điển hình ở người lớn tuổi, thường thuyên giảm trong 5 hoặc 6 năm với một tiến trinh đặc trưng bởi sự tăng và thuyên giảm bệnh. Khoảng một phần ba số người bị bệnh có các tổn thương ở miệng. Rất hiềm khi người trẻ tuổi bị mắc bệnh. Bệnh có thể xuất hiện dưới nhiều dạng khảc nhau, bao gồm tổn thương khu trú, mụn nước, sùi, ban đỏ, đỏ da và u. Không có liên hệ về thống kê với các bệnh ác tính bên trong.
Việc chẩn đoán dựa trên phép sinh thiết và tiếp theo là hiển vi miễn dịch huỳnh quang. Dưới kính hiện vi sáng có thể thấy một bọhg nước dưới biểu bì. Bằng phương pháp miễn dịch huỳnh quang trực tiếp, người tá thường tìm thấy IgG và C3, cùng lúc với các immunoglubulin khác và các thành phần bổ thể. Mặc dù rất ít khi phải dùng đến hiển vi điện tử huỳnh quang cho chẩn đoán nhưng nó định vị chất lắng của IgG và C3 vào lamen lucida của màng dáy. Có thể tìm thấy các kháng thể kháng màng đáy màng lưu hành trong huyết thanh của các bệnh nhân trong khoảng 70% các trường hợp.
Corticosteroid là cách điều trị được lựa chọn. Một số chuyên gia còn dùng thêm methotrexat, azathioprin hoặc cyclophosphamid. Trong một số trường hợp có thể dùng sulfapyridin hoặc dapson. Mặc dù tác dụng lúc ban đầu chậm hơn nhưng dùng tetracyclin hoặc erythromycin, 1 - 1,5g/ngày kết hợp với nicotinamid - chứ không phải là acid nicotinic (cho đến 1,5g/ngày) nếu bệnh nhân chịu thuốc có thể kiểm soát được bệnh đối với những bệnh nhân không thể dùng được corticosteroid. Steroid bôi hiệu lực cao có thể kiểm soát khu trú sớm các thương tổn.
Herpes do thai nghén
Herpes do thai nghén xảy ra khoảng 1 trên 50.000 đến 60.000 phụ nữ có thai. Các bọng nước xuất hiện đầu tiên ở vùng quanh rốn và có thể có các mảng hoặc các nốt đỏ, mụn nước và bọng nước lớn. Bệnh thường xuất hiện vào tháng có thai thứ 5 hay thứ 6 hoặc có thể chậm lại cho tối sau khi sinh. Bệnh tự khỏi nhưng nó có thể tái phát vào lần có thai sau. Việc dùng estrogen hay progesteron hay lúc bắt dầu kinh nguyệt có thể kích thích phát bệnh. Nguy cơ đối với bà mẹ và thai nhi có vẻ ít nặng nề hơn là trước đây người ta vẫn nghĩ. Các bọng nước nằm ở dưới biểu bì với biểu hiện của các bạch cầu ái toan. Miễn dịch huỳnh quang trực tiếp cho thấy có C3 ở vùng màng đáy trong hầu hết các trường hợp. IgG ít được tìm thấy hơn. Yếu tố herpes do thai nghén là một kháng thể IgG cố định bổ thể tìm thấy trong huyết thanh nhưng hiếm khi thấy trong vùng màng đáy.
Corticosteroid là cách điều trị được lựa chọn và đôi khi chỉ có hiệu quả khi bôi corticosteroid.
Bài viết cùng chuyên mục
Ung thư sắc tố
Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.
Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.
Nấm tóc: chẩn đoán và điều trị
Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm.
Hồng ban đa dạng
Hồng ban đa dạng là một bệnh da cấp tính đa hình thái do nhiều nguyên nhân gây nên hoặc do một nguyên nhân không xác định.
Liken phẳng: chẩn đoán và điều trị
Một dạng đặc biệt của liken phẳng là các dạng trợt. Trên lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân nó có thể làm mất khả năng hoạt động.
Viêm nang lông
Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.
Bệnh Bowen và bệnh Paget
Bệnh tiến triển lành tính, nhưng khi những thương tổn này phát triển thành ung thư tế bào gai xâm lấn, thì cắt bỏ hoặc chỉ định phương pháp điều trị khác.
Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy
Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.
Những hình thái bất thường của móng
Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.
Viêm da dị ứng tiếp xúc
Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.
Trứng cá đỏ
Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.
Ngứa: chẩn đoán và điều trị
Có nguyên nhân thông thường nhất của bệnh ngứa liên kết với bệnh toàn thân là tăng ure huyết liên quan đến bệnh tán máu.
Bệnh chấy rận
Nhiễm rận ở mu rất ít thấy, đặc biệt dễ gặp ở những người lông rậm; thậm chí có thể tìm thấy rận ở lông mi và ở da đầu.
Ngứa ở vùng hậu môn sinh dục
Ở phụ nữ ngứa hậu môn đơn thuần rất hiếm còn ngứa âm hộ không phải lúc nào cũng đi kèm ngứa vùng hậu môn, mặc dù ngứa hậu môn thì thường lan tới âm hộ.
Chẩn đoán các bệnh lý da
Tiền sử cũng rất quan trọng trong việc đánh giá sự thất bại trong điều trị. Đối với chuyên khoa ngoài da, trong phần tiền sử này cần có chi tiết cụ thể về cách bệnh nhân đã sử dụng các thuốc bôi như thế nào.
Hồng ban ly tâm mãn tính
Ở trung tâm thương tổn nơi bị cắn thì lành, để lại một viền đỏ, nó cũng có thể nổi lên, tạo mụn nước hoặc hoại tử.
Luput ban đỏ dạng đĩa mạn tính
Khi ANA dương tính với hiệu giá cao, hoặc hình ảnh lâm sàng gợi có thương tổn nội tạng, có kháng thể chống ADN chuỗi kép và giảm bổ thể trong máu sẽ nghĩ tới luput ban đỏ hệ thống.
Bệnh Zona: chẩn đoán và điều trị
Bệnh zona là một bệnh da có bọng nước cấp tính do virus mà virus có hình thái giống như virus thủy đậu. Bệnh thường gặp ở người lớn. Hầu hết bệnh nhân chỉ bị zona một lần.
Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị
Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.
Rôm ban nhiệt
Sử dụng những chế phẩm kháng sinh như chlorhexidin trước khi tiếp xúc với nóng ẩm có thể tránh được rôm. Những người dễ bị rôm nên tránh tiếp xúc với môi trường nóng ẩm.
Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da
Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.
Nấm kẽ: chẩn đoán và điều trị
Thương tổn nấm kẽ khu trú hạn chế ở bẹn và kẽ mông và thông thường thương tổn tiến triển âm ỉ hơn nấm thân và nấm hình vòng. Bình thường ít thương tổn.
Tàn nhang và nốt ruồi, dày sừng da mỡ
Những thương tổn này thường tăng số lượng tế bào sắc tố, và chúng không bị nhạt màu đi khi không còn tiếp xúc với ánh nắng, chúng được coi như tất cả các thường tổn sắc tố khác.
Viêm tế bào: chẩn đoán và điều trị
Chẩn đoán phân biệt bao gồm viêm da tiếp xúc cấp ở một chi gây đỏ da, mụn nước và phù như trong viêm mô tế bào nhưng ngứa thay thế bằng triệu chứng đau.
Nấm tay và chân
Nấm ở chân là loại bệnh da cấp hoặc mạn tính hay gặp. Một số cá thể hay bị bệnh hơn người khác. Hầu hết các trưồng hơn đều do Trichophyton và Epidemophyton gây nên.