Hồng ban đa dạng

2016-06-28 09:43 AM

Hồng ban đa dạng là một bệnh da cấp tính đa hình thái do nhiều nguyên nhân gây nên hoặc do một nguyên nhân không xác định.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán

Bệnh khởi phát đột ngột với các thương tổn đỏ da, đối xứng và có tiền sử tái phát.

Thương tổn có thể là dát đỏ, sẩn, sẩn phù, bọng nước, hoặc xuất huyết.

Thương tổn hình bia bắn với trung tâm lành và xung quanh viền đỏ và có thể coi như là hồng ban đa dạng thứ yếu. Những thương tổn này hiếm khi liên kết với hồng ban đa dạng chính yếu do thuốc (hội chứng Stevens- Johnson).

Hầu hết khu trú ở mặt duỗi của chi, ở lòng bàn tay, bàn chân hoặc ở niêm mạc.

Bệnh này có thể liên đới với herpes simplex, nhiễm khuẩn toàn thân hoặc phản ứng thuốc.

Nhận định chung

Hồng ban đa dạng là một bệnh da cấp tính đa hình thái do nhiều nguyên nhân gây nên hoặc do một nguyên nhân không xác định. Nó có thể là đại diện cho một số bệnh với các biểu hiện và cơ chế bệnh sinh khác nhau. Dựa trên các triệu chứng lâm sàng, bệnh này được chia thành hai dạng: hồng ban đa dạng chính yếu và hồng ban đa dạng thứ yếu. Gần 90% các trường hợp hồng ban đa dạng thứ yếu xuất hiện sau bệnh herpes simplex và biểu hiện bằng các triệu chứng ngoài da. Một vài trường hợp có thể xuất hiện sau khi nhiễm Mycoplasma pneumoniae. Hồng ban đa dạng chính yếu (hội chứng Stevens - Johnson), thuộc nhóm các bệnh da có bọng nước, được biểu hiện bởi tính độc và thường khu trú ở hai bề mặt niêm mạc (miệng và kết mạc), thường liên quan với thuốc đặc biệt là sulíbnamid, thuốc chống viêm không steroid, thuốc chống co giật như phenytoin. Hồng ban đa dạng cũng có thể biểu hiện như một loét niêm mạc miệng tái phát, thương tổn ở da chỉ biểụ hiện ở 50% số trường hợp và được chẩn đoán bằng sinh thiết niêm mạc miệng. Có rất nhiều điều kiện và các tác nhân gây ra bệnh hồng ban đa dạng. Do hồng ban đa dạng có những tiền triệu riêng của nó, có rất nhiều loại thuốc dùng cho các triệu chứng này liên quan tới bệnh học của nó mà không cần các kiểm chứng xác định bệnh. Cũng giống như tất cả các dị ứng thuốc, việc dùng thuốc bôi hay thuốc toàn thân đều có thể là nguyên nhân tiềm tàng gây ra hòng ban đa dạng.

Dấu hiệu và triệu chúng

Thậm chí cả các chuyên gia cũng không phải lúc nào cũng thống nhất ý kiến như thế nào là một tổn thương đích và dấu hiệu lâm sàng quan trọng của hồng ban đa dạng thứ yếu. Tổn thương này bao gồm ba vùng đồng tâm có màu sắc thay đổi hầu hết tập trung ở ngọn chi. Không phải tất cả các tổn thương đều có diện mạo này mà chúng có thể là sẩn, sấn phù đỏ cố định, một số tổn thương loại này có thể phát triển thành bọng nước hoặc thành các thương tổn giống thương tổn đlch, chúng chỉ có hai vùng đồng tâm có màu sắc thay đổi. Đối với hồng ban đa dạng chính yếu, thường gặp loét niêm mạc gây đau đớn khi ăn, khi nuốt và khi tiểu tiện.

Cận lâm sàng

Xét nghiệm máu không có ích cho việc chuẩn đoán. Trong trựờng hợp không có các thương tổn cổ điển như thương tổn đích hay thương tổn hình mống mắt, phải làm sinh thiết da. Hình ảnh giải phẫu bệnh đặc trưng là sự thoái hóa tế bào thượng bì. Cũng có thể quan sát thấy nổi lên sự xâm nhập của lympho bào quanh các huyết quản ở trung bì nông. Phù ở các nhú bì dẫn tới tạo thành các bọng nước là đặc trưng của thương tổn bọng nước. Miễn dịch huỳnh quang trực tiếp thấy có sự lắng đòng của IgM và C3, nhưng đây không phải là tiêu chuẩn chẩn đoán.

Chẩn đoán phân biệt

Mày đay và dị ứng thuốc là hai bệnh chính cần phải phân biệt với hồng ban đa dạng thứ yếu. Các thương tổn đặc trưng của ngứa mày đay thực sự phải xuất hiện và biến mất trong vòng 24 giờ, chúng thường phản ứng rất nhạy với kháng histamin và không tấn công vào niêm mạc. Đối với bệnh hồng ban đa dạng chính yếu, chẩn đoán phân biệt chính là bệnh thoái hóa thượng bì do nhiễm độc, một số nhà cận lâm sàng coi các bệnh này là các biến thế của cùng một bệnh. Khi có bọng nước cần phải hội chẩn. Chẩn đoán phân biệt các bệnh da có bọng nước như pemphigus, dạng pemphigus, và nhiễm độc da dị ứng thuốc thể bọng nước.

Một lần nữa sinh thiết da là một xét nghiệm cơ bản để chẩn đoán.

Biến chứng

Các tổn thương nội tạng (ví dụ như viêm phổi, viêm cơ tim, viêm thận) là các biến chứng rất hiếm gặp. Trong những trường hợp nặng (biến thể của hội chứng Stevens - Johnson) có thương tổn ở niêm mạc khí phế quản và kết mạc, có thể có biến chứng sẹo.

Điều trị

Liệu pháp chung

Hồng ban đa dạng chính yếu (hội chứng Stevens - Johnson) có trợt loét da rộng thì tốt nhất được điều trị ở chuyên khoa bỏng. Mặt khác, bệnh nhân không cần nhập viện nếu không có thương tổn niêm mạc ảnh hưởng tới dinh dưỡng. Đối với những bệnh nhân bắt đầu có bọng nước nên thăm khám hàng ngày.

Các liệu pháp đặc biệt

Mặc dù không có các dữ liệu thích đáng khuyến khích việc sử dụng corticosteroid để điều trị hồng ban đa dạng chính yếu nhưng chúng vẫn được các bạc sĩ kê. Các nghiên cứu hồi cứu cho thấy trẻ em bị bệnh hồng đa dạng được điều trị bằng corticosteroid liều cao trong thực tế cho kết quả khiêm tốn do các biến chứng trong điều trị. Các nghiên cứu này đã bị phê phán do không có các dữ liệu cho biết corticosteroid được dùng vào lúc nào. Nên dùng corticosteroid sớm hơn với liều trung bình (prednison 60 - 80mg) trong các trường hợp nặng hơn, trước khi xuất hiện các bọng nước và dừng thuốc trong một vài ngày nếu không có đáp ứng thuốc rõ rệt. Đối với hồng ban đa dạng ở miệng, corticosteroid uống và bôi rất có hiệu quả. Dùng acyclovir theo đường uống để phòng nhiễm herpes simplex có thể có hiệu quả phòng tránh tái phát herpes có liên kết với hồng ban đa dạng. Có thể dùng kháng sinh kháng tụ cầu cho các nhiễm khuẩn thứ phảt hiếm gặp.

Liệu pháp tại chỗ

Điều trị tại chỗ thường ít hiệu quả đối vớí bệnh này. Đối với thương tổn ở miệng, có thể dùng diphenhyđramin cồn rượu 1% trộn với Kaopectat hoặc với dyclonin 1% để súc miệng vài lần mỗi ngày.

Tiên lượng

Hồng ban đa dạng thứ yếu thường kéo dài 2 đến 6 tuần và có thể tái phát. Hội chứng Stevens -Johnson có thể có thương tổn nội tạng và có thể gầy tử vong ở hầu hết các trường hợp nặng.

Bài viết cùng chuyên mục

Ung thư sắc tố

Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.

Rối loạn sắc tố da

Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.

Chai chân: chẩn đoán và điều trị

Điều trị bao gồm sửa lại cho đúng các bất thường cơ học gây ra ma xát và tỳ đè. Phải đi giày vừa và điều chỉnh lại các biến dạng chỉnh hình.

Bệnh chấy rận

Nhiễm rận ở mu rất ít thấy, đặc biệt dễ gặp ở những người lông rậm; thậm chí có thể tìm thấy rận ở lông mi và ở da đầu.

Loét da do tỳ đè

Nếu vết loét lan rộng rất nhanh có thể là loét của viêm da mủ hoại tử kết hợp với bệnh viêm đường ruột.

Chẩn đoán các bệnh lý da

Tiền sử cũng rất quan trọng trong việc đánh giá sự thất bại trong điều trị. Đối với chuyên khoa ngoài da, trong phần tiền sử này cần có chi tiết cụ thể về cách bệnh nhân đã sử dụng các thuốc bôi như thế nào.

Các thương tổn ở da do động vật chân đốt

Trong các kẽ hở của giường và đồ gỗ, các vết cắn có xu hướng theo đường thẳng hoặc thành đám. Mày đay sẩn là một tổn thương đặc trưng cho các vết cắn của rệp.

Ban nấm da: dị ứng hoặc nhạy cảm với nấm

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn cơ bản là từng nhóm mụn nước, thường khu trú ở mô cái và mô út. Đôi khi thương tổn khu trú ở mu bàn tay thậm chí có thể ở toàn thân.

Bệnh Zona: chẩn đoán và điều trị

Bệnh zona là một bệnh da có bọng nước cấp tính do virus mà virus có hình thái giống như virus thủy đậu. Bệnh thường gặp ở người lớn. Hầu hết bệnh nhân chỉ bị zona một lần.

Vảy phấn hồng Gibert

Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.

Bệnh nấm candida da và niêm mạc

Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum.

Một số bệnh da có bọng nước

Các bọng nước xuất hiện đầu tiên ở vùng quanh rốn và có thể có các mảng hoặc các nốt đỏ, mụn nước và bọng nước lớn.

Viêm nang lông

Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.

Rụng tóc hói: chẩn đoán và điều trị

Rụng tóc do sẹo thường là rụng tóc vĩnh viễn và không thay đổi được. Không có thuốc nào có thể chữa được trừ khi phẫu thuật cấy tóc.

Hồng ban nút

Nghiên cứu mô cho thấy viêm giữa các tế bào dưới da là đặc trưng của hồng ban nút. Mặt khác, phát hiện đó cũng thấy ở các bệnh có liên đới khác.

Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt

Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.

Chốc: thương tổn ướt có vảy

Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn lâm sàng là các dát, mụn nước, bọng nước, mụn mủ, và vảy tiết màu vàng sáp ong dính. Khi cậy bỏ vảy sẽ để lại vết trợt màu đỏ.

Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị

Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.

Nhiễm nấm ở da

Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.

Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị

Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.

Nấm tóc: chẩn đoán và điều trị

Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều không có triệu chứng. Các thương tổn giống chốc và kerion có thể nổi bật bằng sự đau đớn. Cần khám tất cả các trương hợp có vảy mà không có viêm.

Bệnh mày đay và phù mạch

Bệnh mày đay có thể được gây nên bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ chế bệnh sinh có thể do cơ chế miễn dịch hoặc không do cơ chế miễn dịch.

Những hình thái bất thường của móng

Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.

Viêm da dạng herpes

Bệnh nhân có viêm ruột nhạy cảm với gluten, nhưng đôi với phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng.

Bệnh Bowen và bệnh Paget

Bệnh tiến triển lành tính, nhưng khi những thương tổn này phát triển thành ung thư tế bào gai xâm lấn, thì cắt bỏ hoặc chỉ định phương pháp điều trị khác.