- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh da và phần phụ
- Các thương tổn sắc tố da
Các thương tổn sắc tố da
Những bớt nghi ngờ là những bớt có bờ không đều, không đối xứng hoặc bờ có tua là nơi mà sắc tố thường phát triển lan ra cả phần da bình thường quanh nó.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Ung thư sắc tố là một bệnh có tỉ lệ tử vong cao nhất trong các bệnh da, loại tử vong này có thể ngăn ngừa được bằng cách chẩn đoán sớm và tiếp theo là phẫu thuật. Các bác sĩ không chuyên khoa thỉ không nên trông chờ để đưa ra được chẩn đoán cuối cùng đối với tất cả các bệnh sắc tố được nhắc tới dưới đây nhưng họ phải nhận ra được khi nào một thương tổn sắc tố là điển hình và khi nào là không điển hình, cần thiết phải được gửi đi để đánh giá. Một câu hỏi rất chính đáng thường được đưa ra là "Có phải bớt này đáng nghi ngờ không? Nếu như các bác sĩ tránh bỏ sót một vài ung thư sắc tố thì cũng sẽ có nhiều thương tổn sắc tố lành tính được đưa ra xem xét đúng. Vì vậy, các bác sĩ nên khám tất cả bệnh nhân một cách kỹ lưỡng để chỉ ra được các bớt "trông buồn cười". Nói chung, các bớt lành tính thường nhỏ < 5mm, thương tổn có ranh giới rõ với bờ sắc nét và màu sắc đồng đêu từ màu nâu sáng đến màu nâu sẫm. Hầu hết hoặc tất cả các bớt của bệnh nhân thường rất giống nhau về màu sắc và kích thước, hoặc cũng có thể có hai loại bớt trên cùng một bệnh nhân. Việc khám lâm sàng thường có giá trị hơn tiền sử, tuy vậy nếu chắc chắn có một tiền sử là bớt tồn tại và không hề cố sự thay đổi hằng chục năm thì mới hoàn toàn yên tâm.
Những bớt nghi ngờ là những bớt có bờ không đều, không đối xứng hoặc bờ có tua là nơi mà sắc tố thường phát triển lan ra cả phần da bình thường quanh nó, bề mặt cũng không đều như có phần thì nổi cao, có phần thì bằng phẳng. Màu sắc trên thương tổn cũng khác nhau, và màu sắc trên một thương tổn có nhiều màu như màu hồng, xanh, màu xám, màu trắng và màu đen là những dấu hiệu để xem xét.
Hội ung thư học Mỹ đã đưa ra thuật để dễ nhớ: "ABCD"
A: Asymmetry - Không đối xứng.
B: Border irrgularity - Bờ không đều.
C: Color variegation - Nhiều màu sắc.
D: Diameter greater than 6mm - Đường kính > 6mm.
Chảy máu và loét là dấu hiệu đáng lo ngại. Một bớt mà nổi bật lên so với các bớt khác đáng được xem xét kỹ lưỡng. Bệnh nhân càng có nhiều bớt càng có nguy cơ bị ung thư sắc tố và càng phải xem xét cẩn thận, đặc biệt với những bớt không điển hình.
Có sự biến đổi của bớt trong tiền sử là một lý do tiền sử quan trọng nhất để đánh giá sát và có thể đưa ra xem xét. Hội chẩn các thương tổn nghi ngờ luôn luôn là một việc làm đúng.
Bớt có một tiến triển tự nhiên của nó. Trong thập kỷ đầu của cuộc đời, bớt thường xuất hiện như một thương tổn màu nâu, nhỏ và phẳng. Chúng được gọi là bớt giáp ranh vì các tế bào của bớt nằm ở vị trí giáp ranh giữa thượng bì và trung bì. Khoảng hai mươi tuổi tiếp, các bớt này phát triển to lên và thường nổi cao lên, phản ánh sự xuất hiện của các tế bào bớt ở trung bỉ, tạo ra bớt phức hợp. Bớt có thể trở nên đen hơn và to hơn trong thời kỳ mang thai. Khi những bệnh nhân Cáp ca-zơ bước vào độ tuổi bảy tám mươi, thì hầu hết bớt của họ không còn là bớt giáp ranh và đen nữa, và nhiều bớt nổi cao hơn vì chúng bị xơ hóa hoặc có sự thay đổi thoái hóa khác. Tuy nhiên, ở bất kỳ giai đoạn nào, một bớt bình thường phải là một bớt có ranh giới rõ, đối xứng, bờ và màu sắc đồng đều.
Bảng phân loại bệnh và thương tổn của da theo hình thái
Sắc tố: Tàng nhang, Lentigo, Dày sừng da mỡ, bốt, bớt xanh, bớt vòng, bốt loạn sản, u sắc tố.
Mụn nước: Herpes, thủy dậu, Zona, tổ đỉa, nấm, rôm, ghẻ, nhạy cảm ánh sáng.
Vảy: Vảy nến, viêm da (chàm, thể tạng, chàm ứ trệ, viêm da dầu, viêm da tiếp xúc mạn, chàm đồng xu), da khô, nấm da, lang ben, giang mai kỳ hai, vảy phấn hồng, lupút ban đỏ dạng dĩa, viêm da bong vảy, dày sừng ánh nắng, bệnh Bowen, bệnh Paget, viêm kẽ.
Chảy nước và vảy tiết: Chốc, viêm da tiếp xúc cấp, và các viêm da có mụn nước khác.
Đỏ da có hình thù đặc trưng: Mày đay, hồng ban đa dạng, viêm nội tế bào, viêm quầng, dạng viêm quầng, côn trùng đốt, hồng ban nhẫn ly tâm.
Mụn mủ: Trứng cá thường, trứng cá đỏ, viêm nang lông, bệnh nấm Candida, rôm, và các bệnh da có mụn nước.
Bọng nước: Chốc, Pemphygus, Pemphygoid, Porphyria cutanea, di ứng thuốc, hồng ban đa dạng, hội chứng Lyell.
Sẩn. Dày sừng: Hạt cơm, chai chân, dày sừng da mỡ.
Sẩn tím: Liken phăng, dị ứng thuốc, Kaposi sarcoma.
Sẩn màu đỏ tươi, lõm giữa: u mềm lây. Hạt soài: ung thư tế bào đáy, bớt trung bì.
Sẩn viêm nhỏ và đỏ: trứng cá, rôm, bệnh nấm candida, viêm kẽ, ghẻ, viêm nang lông.
Ngứa: Khô da, ghẻ, chấy rận, côn trùng dốt, bệnh nguyên nhân toàn thân, ngứa sinh dục.
U nang: Hồng ban nút, nhọt, trứng cá bọc, nang thượng bì hoặc nang lông.
Viêm da do ánh sáng: Lupút đỏ, viêm da ánh sáng do thuốc, ban nhú da dạng sáng màu.
Dát: Dị ứng thuốc, phát ban do virus, giang mai kỳ hai.
Vết trợt: Các viêm da có mụn nước, chốc, áp tơ, liken phẳng, hồng ban da dạng, loét miệng.
Loét: Loét do nằm lâu, herpes, ung thư da, nhiễm ký sinh trùng, săng giang mai, chancroid, viêm mao mạch, viêm da do ứ trệ, bệnh động mạch.
Bài viết cùng chuyên mục
Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị
Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.
Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt
Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.
Rối loạn sắc tố da
Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.
Chàm thể tạng: bệnh da có vảy
Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.
Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.
Rôm ban nhiệt
Sử dụng những chế phẩm kháng sinh như chlorhexidin trước khi tiếp xúc với nóng ẩm có thể tránh được rôm. Những người dễ bị rôm nên tránh tiếp xúc với môi trường nóng ẩm.
Trứng cá thường
Bệnh hay gặp hơn và cũng thường nặng hơn ở nam giới. Trái với quan niệm của dân chúng, bệnh không tự khỏi khi trưởng thành. Nếu không được điều trị, bệnh tồn tại đến tuổi 40, 50 hoặc thậm chí tuổi 60.
Nấm tay và chân
Nấm ở chân là loại bệnh da cấp hoặc mạn tính hay gặp. Một số cá thể hay bị bệnh hơn người khác. Hầu hết các trưồng hơn đều do Trichophyton và Epidemophyton gây nên.
Những hình thái bất thường của móng
Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.
Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch
Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.
Viêm da thần kinh: liken thường mạn tính
Cách giải thích cổ điển về viêm da thần kinh là biểu hiện một chu kỳ ngứa gãi tự hết, nhưng không có bằng chứng cho rằng đây là nguyên nhân duy nhất gây nên do thói quen của bệnh nhân.
Nấm kẽ: chẩn đoán và điều trị
Thương tổn nấm kẽ khu trú hạn chế ở bẹn và kẽ mông và thông thường thương tổn tiến triển âm ỉ hơn nấm thân và nấm hình vòng. Bình thường ít thương tổn.
Bệnh dày sừng do ánh nắng
Phương pháp điều trị nhanh và có hiệu qủa là dùng nitơ lỏng. Thương tổn bị đông lạnh sau vài giây khi dùng tăm bông nhúng trong nitơ lỏng hoặc bằng phương pháp phun.
Nhọt và nhọt độc
Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.
Bệnh Bowen và bệnh Paget
Bệnh tiến triển lành tính, nhưng khi những thương tổn này phát triển thành ung thư tế bào gai xâm lấn, thì cắt bỏ hoặc chỉ định phương pháp điều trị khác.
Nhiễm nấm ở da
Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.
Hạt cơm: chẩn đoán và điều trị
Một số tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng.
Loét da do tỳ đè
Nếu vết loét lan rộng rất nhanh có thể là loét của viêm da mủ hoại tử kết hợp với bệnh viêm đường ruột.
Nấm thân hoặc nấm hình vòng
Xét nghiệm nấm dương tính đã phân biệt được bệnh nấm thân với các thương tổn có hình tròn khác như vảy nến, luput đỏ, giang mai, họng ban đa dạng và vảy phấn hồng Gibert.
Liken phẳng: chẩn đoán và điều trị
Một dạng đặc biệt của liken phẳng là các dạng trợt. Trên lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân nó có thể làm mất khả năng hoạt động.
Một số bệnh da có bọng nước
Các bọng nước xuất hiện đầu tiên ở vùng quanh rốn và có thể có các mảng hoặc các nốt đỏ, mụn nước và bọng nước lớn.
Luput ban đỏ dạng đĩa mạn tính
Khi ANA dương tính với hiệu giá cao, hoặc hình ảnh lâm sàng gợi có thương tổn nội tạng, có kháng thể chống ADN chuỗi kép và giảm bổ thể trong máu sẽ nghĩ tới luput ban đỏ hệ thống.
Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da
Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.
Hồng ban nút
Nghiên cứu mô cho thấy viêm giữa các tế bào dưới da là đặc trưng của hồng ban nút. Mặt khác, phát hiện đó cũng thấy ở các bệnh có liên đới khác.
Bớt bẩm sinh, bớt loạn sản, bớt xanh
Một lần nữa, ta cần nhấn mạnh mục tiêu của các bác sĩ không chuyên khoa là xác định được các bớt không bình thường chứ không cần thiết phải xác định đây là loại bớt gì.