- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh da và phần phụ
- Bớt bẩm sinh, bớt loạn sản, bớt xanh
Bớt bẩm sinh, bớt loạn sản, bớt xanh
Một lần nữa, ta cần nhấn mạnh mục tiêu của các bác sĩ không chuyên khoa là xác định được các bớt không bình thường chứ không cần thiết phải xác định đây là loại bớt gì.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Bớt bẩm sinh
Việc theo dõi các bớt bẩm sinh nhỏ, nhở hơn vài cm đường kính đang còn là vấn đề tranh cãi. Phần lớn bớt (> 97%) sẽ không bao giờ trở thành các tính, nhưng theo một số chuyên gia cho thấy rằng một số nguy cơ trở thành ác tính ở những bớt này hơi tăng một chút. Vì 1% người Cap ca zơ sinh ra đã có bớt này, nên việc quản lý bệnh nhân phải được bảo toàn và nên khuyên họ chỉ cắt bỏ thương tổn ở những vùng không ảnh hưởng tới thẩm mỹ và là những vùng mà bệnh nhân không thể dễ dàng tự nhìn thấy được thương tổn và để ý đến bất kỳ một sự biến đổi nghi ngờ của nó. Phẫu thuật nên được cân nhắc đối với những bớt bẩm sinh có bờ (mấp mô, u), hoặc màu sắc (màu khác nhau) mà nó làm cho người khám khó để ý tới các dấu hiệu thay đổi sớm của ung thư. Bớt tế bào sắc tố bẩm sinh khổng lồ có nguy cơ phát triển thành ung thư sắc tố lớn, và nên phẫu thuật cắt bỏ đúng giai đoạn.
Bớt loạn sản
Bớt loạn sản là một lĩnh vực khác cũng đang được tranh luận trong ngành da liễu. Những bớt này có kích thước lớn (> 5mm) và nhiễm sắc tố mạnh, và có bờ không đều, có màu đỏ lẫn với màu nâu. Hình ảnh giải phẫu bệnh đặc trưng, nhà giải phẫu có thể cho thấy được các mức độ không bình thường của thương tổn. Các bác sĩ nên coi đây là thương tổn nghi ngờ để xem xét.
Bệnh nhân có thể chỉ có một hoặc nhiều loại thương tổn như vậy. Khi có tính chất gia đình rõ và có nhiều u sắc tố thì những thương tổn đó nên nghĩ trước tới u sác tố, nếu một người chỉ có một bớt loạn sản duy nhất và tiền sử bản thân cũng như gia đình về bớt sắc tố không rõ ràng thì ít nghĩ tới u sắc tố. Tuy nhiên, phương pháp giải quyết thận trọng nhất đối với những bệnh nhân có bớt như vậy là khám toàn bộ cơ thể, phẫu thuật cắt bỏ những thương tổn nghi ngờ là u ác tính, và nên khám tất cả các thành viên trong gia đình bệnh nhân. Những bệnh nhân có bớt không bình thường phải theo dõi sát, tốt nhất là theo dõi bằng cách chụp ảnh. Tất cả các bệnh nhân có bớt loạn sản phải được theo rõi một cách có chu kỳ suốt cuộc đời. Một lần nữa, ta cần nhấn mạnh mục tiêu của các bác sĩ không chuyên khoa là xác định được các bớt không bình thường chứ không cần thiết phải xác định đây là loại bớt gì.
Bớt xanh
Bớt xanh là những bớt nhỏ, hơi nổi cao hơn mặt da, có màu xanh đen. Chúng rất phổ biến ở những người châu Ấ, một người có thể có nhiều thương tổn như vậy. Nếu bớt tồn tại mà không có sự thay đổi qua nhiều năm, thì có thể cho là lành tính, vì tỉ lệ bớt xanh bị ung thư hóa rất ít. Tuy nhiên, những sẩn và u màu xanh đen mới xuất hiện và to lên thì cần loại trừ ung thư sắc tố dạng u.
Bài viết cùng chuyên mục
Ung thư sắc tố
Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.
Trứng cá đỏ
Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.
Bệnh nấm móng
Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân.
Ghẻ: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.
Bệnh Zona: chẩn đoán và điều trị
Bệnh zona là một bệnh da có bọng nước cấp tính do virus mà virus có hình thái giống như virus thủy đậu. Bệnh thường gặp ở người lớn. Hầu hết bệnh nhân chỉ bị zona một lần.
Các thương tổn sắc tố da
Những bớt nghi ngờ là những bớt có bờ không đều, không đối xứng hoặc bờ có tua là nơi mà sắc tố thường phát triển lan ra cả phần da bình thường quanh nó.
Hạt cơm: chẩn đoán và điều trị
Một số tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng.
Ung thư tế bào đáy
Một số ít tổn thương có thể loét và gây một sự phá hủy lớn, cuối cùng xâm nhập các cấu trúc sống và hiếm khi xâm nhập vào não, gây tử vong.
Những hình thái bất thường của móng
Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.
Bệnh nấm candida da và niêm mạc
Cần chẩn đoán phân biệt với viêm kẽ, viêm da đầu, nấm kẽ, vảy nến thể đảo ngược và bệnh nấm Corynebacterium minutissimum.
Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da
Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.
Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt
Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.
Viêm da dị ứng tiếp xúc
Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.
Rối loạn sắc tố da
Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.
Nấm kẽ: chẩn đoán và điều trị
Thương tổn nấm kẽ khu trú hạn chế ở bẹn và kẽ mông và thông thường thương tổn tiến triển âm ỉ hơn nấm thân và nấm hình vòng. Bình thường ít thương tổn.
Tổ đỉa: chẩn đoán và điều trị
Các mụn nước trong, nhỏ, nằm rải rác ở hai bên của các ngón tay và ở lòng bàn tay, lòng bàn chân. Trông giống như hạt gạo tròn trong bột sắn. Các thương tổn này có thể rất ngứa.
U mềm lây: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương có thể lan rộng do tự nhiễm. Trong hoạt động tình dục, chúng có thể giới hạn ở vùng sinh dục như dương vật, mu, và mặt trong đùi.
Chẩn đoán các bệnh lý da
Tiền sử cũng rất quan trọng trong việc đánh giá sự thất bại trong điều trị. Đối với chuyên khoa ngoài da, trong phần tiền sử này cần có chi tiết cụ thể về cách bệnh nhân đã sử dụng các thuốc bôi như thế nào.
Viêm nang lông
Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.
Viêm da do ánh nắng
Phản ứng viêm da cấp tính, nếu đủ nặng thường kèm theo đau, triệu chứng đường ruột, khó chịu và thậm chí kiệt sức, điều này ít xẩy ra.
Viêm tế bào: chẩn đoán và điều trị
Chẩn đoán phân biệt bao gồm viêm da tiếp xúc cấp ở một chi gây đỏ da, mụn nước và phù như trong viêm mô tế bào nhưng ngứa thay thế bằng triệu chứng đau.
Ung thư tế bào gai
Cần phải khám da và dùng các liệu pháp điều trị như đối với bệnh ung thư tế bào đáy. Cắt bỏ là cách điều trị được dùng nhiều đối với ung thư tế bào đáy.
Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu
Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.
Các thương tổn ở da do động vật chân đốt
Trong các kẽ hở của giường và đồ gỗ, các vết cắn có xu hướng theo đường thẳng hoặc thành đám. Mày đay sẩn là một tổn thương đặc trưng cho các vết cắn của rệp.
Viêm da dạng herpes
Bệnh nhân có viêm ruột nhạy cảm với gluten, nhưng đôi với phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng.