- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh da và phần phụ
- Bệnh Zona: chẩn đoán và điều trị
Bệnh Zona: chẩn đoán và điều trị
Bệnh zona là một bệnh da có bọng nước cấp tính do virus mà virus có hình thái giống như virus thủy đậu. Bệnh thường gặp ở người lớn. Hầu hết bệnh nhân chỉ bị zona một lần.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán
Đau dọc theo các bó thần kinh và tiếp theo là xuất hiện từng nhóm mụn nước rất đau.
Thương tổn chỉ ở một bên của cơ thể, một vài thương tổn có thể xuất hiện ở ngoài vùng da bị bệnh.
Thương tổn thường khu trứ ở vùng mặt và thân mình.
Có viêm hạch vùng lân cận (không bắt buộc).
Chẩn đoán tế bào Tzanck dương tính, đặc biệt ở những thương tổn mới.
Đánh giá chung
Bệnh zona là một bệnh da có bọng nước cấp tính do virus mà virus có hình thái giống như virus thủy đậu. Bệnh thường gặp ở người lớn. Hầu hết bệnh nhân chỉ bị zona một lần. Ở những bệnh nhân có thương tổn về hệ miễn dịch, thương tổn có thể lan rộng và đe doạ tính mạng bệnh nhân. Đối với những người có nguy cơ nhiễm HIV thì tổn thương zona là một dấu hiệu báo trước có suy giảm về miễn dịch tế bào.
Lâm sàng
Đau thường có trước thương tổn bọng nước khoảng 48 giờ hoặc hơn và có thể tồn tại và tăng lên sau khi thương tổn đã xẹp. Thương tổn cơ bản là những nhóm mụn nưốc sâu, căng, khu trú một bên của cơ thể, dọc theo các đường dây thần kinh ở thân mình. Vị trí thường hay gặp nhất là thân mình và ở vùng mặt. Hạch ngoại biên lân cận có thể sưng và mềm.
Zona da không hàm ý biểu hiện của một ung thư nội tạng, hay một bệnh toàn thể, tuy nhiên, đưa ra sự nghi ngờ có kết hợp với những rối loạn suy giảm miễn dịch như AIDS hay bệnh Hodgkin.
Chẩn đoán phân biệt
Vì viêm da do độc tố của cây sồi và cây dương thường xuyên có thể gây thương tổn thành dải ở một bên cơ thể khi chạm vào cây, vì vậy cần phải chẩn đoán phân biệt với zona. Dải mụn nước thường điển hình hơn đối với viêm da tiếp xúc, còn nhóm mụn nước điển hình đối với nhiễm virus. Chúng ta cũng phải chẩn đoán phan biệt zona với các thương tổn tương tự của herpes simplex, nhưng nó kém đau hơn. Lý do chính để phân biệt giữa herpes simplex với zona là liều acyclovir được dùng trong điều trị và cớ hội tái phát sau đó. Tiền triệu đau trong zona có thể làm cho các nhà lâm sàng chẩn đoán nhầm là đau nửa đầu, nhồi máu cơ tim, đau bụng cấp, phụ thuộc vào vị trí da có tổn thương.
Biến chứng
Sự tồn tại của đau dây thần kinh, tê bì hoặc sẹo ở vùng thương tổn sau khi các thương tổn khỏi, viêm các dây thần kinh mặt và các dây thần kinh khác, có thể có viêm não. Đau dây thần kinh sau điều trị là biến chứng hay gặp nhất sau khi có tổn thương ở vùng dây thần kinh sinh ba, ở những bệnh nhân tuổi trên 60, và ở những người có suy giảm miễn dịch. Zona mắt có thể làm cho thị lực giảm.
Điều trị
Liệu pháp toàn thân
Có thể làm thuyên giảm cơn zona ở những người suy giảm miễn dịch bằng thuốc acyclovir. Người ta đã thông báo rằng bằng cả hai phương pháp tiêm tĩnh mạch và uống liều cao acyclovir (800mg 5 lần một ngày dùng trong 7 ngày) có thể đẩy mạnh tốc độ lành bệnh và làm giảm đau cấp tính khi bắt đầu điều trị trong vòng 48 - 72 giờ đầu. Bệnh nhân nên duy trì việc giữ vệ sinh tốt, và bệnh nhân có chức năng thận giảm phải được theo dõi sát xao. Phong bế thần kinh có thể có giá trị để kiểm soát đau thần kinh. Nên khám chuyên khoa mắt khi thương tổn ở nhánh thứ nhất của sợi dây thần kihh sinh ba. Không có tài liệu rõ rằng nào về phương pháp đặc hiệu để phòng chống đau dây thần kinh sau khi điều trị khỏi, mặc dù việc dùng acyclovir và corticosteroid đã được chủ trương dùng trong quá khứ.
Globulin miễn dịch với thủy đậu - zona không có hiệu quả trong zona đã rõ nhưng nó có giá trị quan trọng ở những bệnh nhân có suy giảm miễn dịch mà trước đó không bị thủy đậu và sau đó mới được tiếp xúc với thủy đậu hoặc zona.
Mục đích củạ việc điều trị zona ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch là phòng khả năng lan tràn của virus có đe dọa cuộc sống. Cả hai phương pháp tiêm tĩnh mạch và uống đều sẽ phòng chống sự tiến triển trong cộng đồng bệnh nhân. Tuy nhiên, điều chú ý đặc biệt và sự theo dõi sát những bệnh nhân có nhiễm HIV và có số lượng tế bào lympho T thấp, hoặc có suy dinh dưỡng, hoặc khối u lympho, hoặc những bệnh nhân đang dùng thuốc ức chế miễn dịch là rất cần thiết. Bệnh zona tiến triển phải dùng liệu pháp tiêm tĩnh mạch. Tác dụng phụ có thể là giảm chức năng thận do sự kết tinh, nôn và buồn nôn, đau bụng. Chúng ta có thể cho 7,5mg/kg cân nặng tiêm tĩnh mạch, 3 lần một ngày trong 7 ngày. Tuy nhiên rất nhiều bệnh nhân có thể được điều trị bằng acyclovir bằng cách uống lệ thuộc vào tình trạng miễn dịch của họ.
Liệu pháp lại chỗ
Hồ nước hoặc bột talc có thể có ích.
Đau dây thân kinh sau Zona
Thuốc bôi Capsaicin có thể có hiệu quả trong 50% trường hợp. Đau dây thần kinh mạn tính có thể phong bế vùng (hạch sao, ngoài màng cứng, thâm nhiễm tại chỗ, hoặc thần kinh ngoại biên) bằng Bupivacain hydrochlorid, có kèm hoặc không kèm corticosteroid. Amitriptylin, 25 mg uống 3 lần một ngày, và Fluphenazin, 1mg 4 lần một ngày cũng có thể được dung. Doxepin, 25 - 50mg 3 lần một ngày đã được thông báo là có ích. Ngủ gà có thể xảy ra khi dùng thuốc.
Tiên lượng
Bệnh tồn tại 2 - 3 tuần và không bao giờ tái phát. Người ta cho rằng tổng số ngày bị bệnh có thể được dự đoán trước bàng số ngày nhiều hơn ngày các mụn nước mới tiếp tục xuất hiện. Đau dây thần kinh vận động chiếm 2 - 3% và có thể dẫn tới tê liệt tạm thời. Không có nhóm tuổi nào là hoàn toàn không có khả năng bị đau dây thần kinh sau zona hàng năm hoặc lâu hơn, nhưng có nhiều khả năng bị đau nhiều hơn ở nhóm tuổi 60 - 69 (20%) và ở nhóm tuổi trên 70 (30%), và ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Zona mắt có thể dẫn tới mù. Dẫn chứng về zona tái phát rất hiếm và khi nghiên cứu, cho thấy virus herpes simplex mọc trên môi trường nuôi cấy.
Bài viết cùng chuyên mục
Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy
Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.
Viêm kẽ: chẩn đoán và điều trị
Điều trị bằng cách luôn giữ cho vùng kẽ đó sạch, khô, và đắp các dung dịch mang lại hiệu quả cao. Nếu tìm thấy bào tử nấm hoặc vi khuẩn, thì phải bôi imidazol chống nấm dạng dung dịch, hoặc bột.
Chẩn đoán các bệnh lý da
Tiền sử cũng rất quan trọng trong việc đánh giá sự thất bại trong điều trị. Đối với chuyên khoa ngoài da, trong phần tiền sử này cần có chi tiết cụ thể về cách bệnh nhân đã sử dụng các thuốc bôi như thế nào.
Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu
Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.
Chàm thể tạng: bệnh da có vảy
Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.
Tàn nhang và nốt ruồi, dày sừng da mỡ
Những thương tổn này thường tăng số lượng tế bào sắc tố, và chúng không bị nhạt màu đi khi không còn tiếp xúc với ánh nắng, chúng được coi như tất cả các thường tổn sắc tố khác.
Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị
Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.
Loét da do tỳ đè
Nếu vết loét lan rộng rất nhanh có thể là loét của viêm da mủ hoại tử kết hợp với bệnh viêm đường ruột.
Bệnh Bowen và bệnh Paget
Bệnh tiến triển lành tính, nhưng khi những thương tổn này phát triển thành ung thư tế bào gai xâm lấn, thì cắt bỏ hoặc chỉ định phương pháp điều trị khác.
Viêm da dạng herpes
Bệnh nhân có viêm ruột nhạy cảm với gluten, nhưng đôi với phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng.
Các thương tổn ở da do động vật chân đốt
Trong các kẽ hở của giường và đồ gỗ, các vết cắn có xu hướng theo đường thẳng hoặc thành đám. Mày đay sẩn là một tổn thương đặc trưng cho các vết cắn của rệp.
Nhiễm nấm ở da
Nói chung, chỉ điều trị sau khi đã có chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm soi tươi hoặc nuôi cấy nấm, đặc biệt khi dùng thuốc chống nấm toàn thân.
Hồng ban đa dạng
Hồng ban đa dạng là một bệnh da cấp tính đa hình thái do nhiều nguyên nhân gây nên hoặc do một nguyên nhân không xác định.
Nhọt và nhọt độc
Có nổi bật lên cảm giác đau và nhậy cảm, và với nhọt độc thì dữ dội hơn nhọt thường. Áp xe nang lông hoặc là tròn hoặc là hình nón.
Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da
Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.
Nấm tay và chân
Nấm ở chân là loại bệnh da cấp hoặc mạn tính hay gặp. Một số cá thể hay bị bệnh hơn người khác. Hầu hết các trưồng hơn đều do Trichophyton và Epidemophyton gây nên.
Những hình thái bất thường của móng
Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.
Bệnh vảy nến
Bệnh vảy nến là một bệnh viêm da cấp hoặc mạn, hay gặp, lành tính, có tính chất di truyền. Có một số yếu tố trung gian gây bệnh như polyamine, protease, CAMP, các yếu tố phát triển như TGFa và leukotrien.
Viêm nang lông
Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.
Bệnh nấm móng
Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân.
Vảy phấn hồng Gibert
Các thương tổn cổ điển của vảy phấn hồng Gibert không có biểu hiện như vậy. Lang ben, phát ban do virus, và dị ứng thuốc có thể giống vảy phấn hồng Gibert.
Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch
Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.
Viêm da dị ứng tiếp xúc
Giai đoạn cấp tính thương tổn đặc trưng bởi các mụn nước nhỏ li ti, chảy nước và đóng vảy, khi thương tổn xẹp hoặc thương tổn mạn tính sẽ biểu hiện bằng các vảy da, đỏ da và có thể có dày da.
Bệnh mày đay và phù mạch
Bệnh mày đay có thể được gây nên bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ chế bệnh sinh có thể do cơ chế miễn dịch hoặc không do cơ chế miễn dịch.
Chốc: thương tổn ướt có vảy
Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn lâm sàng là các dát, mụn nước, bọng nước, mụn mủ, và vảy tiết màu vàng sáp ong dính. Khi cậy bỏ vảy sẽ để lại vết trợt màu đỏ.