Bệnh nấm móng
Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Nấm móng là sự phá hủy một hay nhiều móng tay, chân (nhưng hiếm khi tất cả) do nhiễm nấm Trichophyton gây nên. Loại nấm hay gặp nhất là Trichophyton mentagrophytes và Trichophyton rubrum. Candida albican gây bệnh viêm móng do candida. Nấm "Saprophytic" ccũng có thể gây viêm móng.
Nấm móng thường không có triệu chứng. Móng bị mất độ bóng, giòn và quá sản, chất móng có thể khô và thậm chí xốp. Những mảnh vụn không đều của móng bị bệnh có thể bị vỡ. Chẩn đọán cận lâm sàng là bắt buộc. Móng nên làm sạch bằng hydroxid kali 10% và kiểm tra dưới kính hiển vi để xem có những nhánh sợi nấm và các đám bào tử nấm không. Nấm có thể nuôi cấy được trên môi trường Sabouraud. Nhuộm PAS trên tiêu bản sinh thiết cũng có thể tìm thấy nấm.
Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân. Đối với nấm móng chân thường gây chán nản khi điều trị ở nhiều bệnh nhân và nên kiểm soát sự khó chịu này bằng cách xén bớt phần móng dày ở nền móng.
Griseofulvin dạng siêu nhỏ, 1 - 1,5g/ngày là thuốc được chọn đầu tiên để điều trị nấm móng. Đối với nấm móng chân đòi hỏi phải kéo dài thời gian điều trị 12 - 18 tháng. Ketoconazol 200mg/ngày đôi khi cũng được dùng để điều trị nấm móng, mặc dù thuốc không được tán thành dùng. Ketoconazol có thể tăng lên 400mg/ngày và sẽ tăng khả năng khỏi bệnh, nhưng tác dụng phụ không mong muốn (độc cho gan, tác dụng lên vỏ thượng thận và tác dụng chống androgen) cần phải được xém xét. Mặc dù không được chỉ định dùng, itraconazol, 200mg x 2 lần/ngày dùng trong 1 tuần mỗi tháng và trong 4 tháng có thể là phương pháp khác điều trị nấm móng chân và có ưu điểm là thuốc tồn tại ở nền móng sau khi đã ngừng điều trị. Tuy nhiên, tái phát vẫn hay xảy ra. Itraconazol có thể làm tăng các men của gan và tăng glyceride máu. Nên áp dụng nhiều phương pháp điều trị, ví dụ ngày nay người ta dùng fluconazol liều thấp một lần một tuần.
Móng nên mài hoặc dũa bớt hằng ngày (xuống tới đáy móng nếu cần thiết). Ciclopirox là một loại kem chống nấm có chứa muối pyridon ethanolamin và hình như thuốc ngấm vào móng tốt hơn các loại thuốc bôi khác. Nói chung không có loại thuốc bôi nào thật là có tác dụng. Tuy vậy, ngày nay người ta đang thử nghiệm tác dụng của những chất chống nấm trong tá dược mới.
Thậm chí khi móng đã sạch hết thương tổn sau những tháng điều trị, bệnh vẫn có thể tái phát ngay sau khi ngừng thuốc chống nấm toàn thân một thời gian ngắn. Thuốc bôi chống nấm có thể dùng duy trì sau khi đã dùng thuốc chống nấm toàn thân.
Bài viết cùng chuyên mục
Bệnh Pemphigus: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở các màng niêm mạc miệng, và những tổn thương này nhanh chóng trở nên bị trợt da.
Chốc: thương tổn ướt có vảy
Ngứa là triệu chứng duy nhất. Thương tổn lâm sàng là các dát, mụn nước, bọng nước, mụn mủ, và vảy tiết màu vàng sáp ong dính. Khi cậy bỏ vảy sẽ để lại vết trợt màu đỏ.
Tổ đỉa: chẩn đoán và điều trị
Các mụn nước trong, nhỏ, nằm rải rác ở hai bên của các ngón tay và ở lòng bàn tay, lòng bàn chân. Trông giống như hạt gạo tròn trong bột sắn. Các thương tổn này có thể rất ngứa.
Lang ben: chẩn đoán và điều trị
Dát nhạt màu cần chẩn đoán phân biệt với bạch biến, dựa vào sự xuất hiện các thương tổn. Bạch biến thường khu trú ở vùng quanh hốc tự nhiên và đầu ngón tay.
Tàn nhang và nốt ruồi, dày sừng da mỡ
Những thương tổn này thường tăng số lượng tế bào sắc tố, và chúng không bị nhạt màu đi khi không còn tiếp xúc với ánh nắng, chúng được coi như tất cả các thường tổn sắc tố khác.
Nấm thân hoặc nấm hình vòng
Xét nghiệm nấm dương tính đã phân biệt được bệnh nấm thân với các thương tổn có hình tròn khác như vảy nến, luput đỏ, giang mai, họng ban đa dạng và vảy phấn hồng Gibert.
Các thương tổn sắc tố da
Những bớt nghi ngờ là những bớt có bờ không đều, không đối xứng hoặc bờ có tua là nơi mà sắc tố thường phát triển lan ra cả phần da bình thường quanh nó.
Chẩn đoán các bệnh lý da
Tiền sử cũng rất quan trọng trong việc đánh giá sự thất bại trong điều trị. Đối với chuyên khoa ngoài da, trong phần tiền sử này cần có chi tiết cụ thể về cách bệnh nhân đã sử dụng các thuốc bôi như thế nào.
Nấm kẽ: chẩn đoán và điều trị
Thương tổn nấm kẽ khu trú hạn chế ở bẹn và kẽ mông và thông thường thương tổn tiến triển âm ỉ hơn nấm thân và nấm hình vòng. Bình thường ít thương tổn.
Một số bệnh da có bọng nước
Các bọng nước xuất hiện đầu tiên ở vùng quanh rốn và có thể có các mảng hoặc các nốt đỏ, mụn nước và bọng nước lớn.
Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.
Trứng cá đỏ
Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.
Ngứa ở vùng hậu môn sinh dục
Ở phụ nữ ngứa hậu môn đơn thuần rất hiếm còn ngứa âm hộ không phải lúc nào cũng đi kèm ngứa vùng hậu môn, mặc dù ngứa hậu môn thì thường lan tới âm hộ.
Chàm thể tạng: bệnh da có vảy
Chàm thể tạng có hình thái và tỉ lệ khác nhau ở lứa tuổi khác nhau, vì hầu hết bệnh nhân chàm thể tạng có da khô và bong vảy ở một vài thời điểm nên bệnh này được thảo luận ở bệnh da có vảy.
Rối loạn sắc tố da
Trước hết cần xác định thế nào là tăng sắc tố và giảm sắc tố. Mỗi loại có thể là tiên phát hay thứ phát sau một bệnh khác.
Ung thư sắc tố
Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.
Hồng ban đa dạng
Hồng ban đa dạng là một bệnh da cấp tính đa hình thái do nhiều nguyên nhân gây nên hoặc do một nguyên nhân không xác định.
Loét cẳng chân thứ phát sau thiểu năng tĩnh mạch
Bệnh nhân thường có một tiền sử lâu dài bị thiểu năng tĩnh mạch. Viêm da thường xuất hiện sau phù nề mạn tính, và thường rất ngứa.
Hồng ban ly tâm mãn tính
Ở trung tâm thương tổn nơi bị cắn thì lành, để lại một viền đỏ, nó cũng có thể nổi lên, tạo mụn nước hoặc hoại tử.
Viêm tế bào: chẩn đoán và điều trị
Chẩn đoán phân biệt bao gồm viêm da tiếp xúc cấp ở một chi gây đỏ da, mụn nước và phù như trong viêm mô tế bào nhưng ngứa thay thế bằng triệu chứng đau.
Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu
Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.
Viêm da thần kinh: liken thường mạn tính
Cách giải thích cổ điển về viêm da thần kinh là biểu hiện một chu kỳ ngứa gãi tự hết, nhưng không có bằng chứng cho rằng đây là nguyên nhân duy nhất gây nên do thói quen của bệnh nhân.
Ghẻ: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương đặc trưng có thể gặp ở núm vú phụ nữ và như là các mụn nước có thể thấy ở mông. Viêm da mủ thường là dấu hiệu biểu hiện của bệnh.
Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt
Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.
Bệnh dày sừng do ánh nắng
Phương pháp điều trị nhanh và có hiệu qủa là dùng nitơ lỏng. Thương tổn bị đông lạnh sau vài giây khi dùng tăm bông nhúng trong nitơ lỏng hoặc bằng phương pháp phun.