- Trang chủ
- Chẩn đoán & điều trị
- Chẩn đoán và điều trị bệnh da và phần phụ
- Bệnh mày đay và phù mạch
Bệnh mày đay và phù mạch
Bệnh mày đay có thể được gây nên bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ chế bệnh sinh có thể do cơ chế miễn dịch hoặc không do cơ chế miễn dịch.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Những điểm thiết yếu cho chẩn đoán
Các thương tổn phát ra là sẩn phù hay ban đỏ và dễ biến mất.
Ngứa thường dữ dội và rất ít khi không có ngứa.
Những thể đặc biệt của mày đay có hình thái cũng đặc biệt (vạch da, mày đay cường giao cảm, mày đay do ánh nắng, hoặc mày đay lạnh.)
Hầu hết các trường hợp xảy ra cấp tính và tự khỏi sau 1- 2 tuần.
Mày đay mạn tính (mỗi đợt kéo dài > 6 tuần) có thể bất chấp những cố gắng của các nhà lâm sàng để tìm và hạn chế nguyên nhân gây bệnh.
Đánh giá chung
Bệnh mày đay có thể được gây nên bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Cơ chế bệnh sinh có thể do cơ chế miễn dịch hoặc không do cơ chế miễn dịch. Cơ chế miễn dịch chung nhất là cơ chế miễn dịch phụ thuộc IgE, mà chúng ta thấy hầu hết bệnh nhân mày đay cấp tính, cùng với sự hoạt hóa của các bổ thể, và từ đó sản xuất rà độc tố phản vệ, rồi giải phóng ra histamin. Cuối cùng là các bệnh nhân mày đay mạn tính cho thấy có kháng thể chống lại trực tiếp epitop của dưỡng bào, hoạt hóa sự giải phóng histamin, hoặc làm quá tăng quá trình tái hoạt đối với các peptid ruột vận mạch. Dù là cơ chế miễn dịch hay không miễn dịch, các yếu tố điều biến tác động lên dưỡng bào và tế bào ái kiềm để giải phóng các chất trung gian có khả năng làm tăng tính thấm thành mạch và tạo ra sẩn phù.
Dấu hiệu và triệu chứng
Thương tổn là sẩn phù màu đỏ, ngứa, có kích thuốc từ vài milimet cho tới nhiều centimét. Đối với hầu hết các loại mày đay, sẩn phù và ban đỏ có cùng một kích thước. Hình thái thương tổn có thể khác nhau qua từng phút cho tới từng giờ, hậu quả dẫn tới các hình thái bản đồ hay hình vòng cung. Nếu thương tổn có ở các mạch sâu hơn, sẽ gây phù ở môi, bờ mi, thanh quản, bàn tay, bàn chân, cơ quan sinh dục và kết hợp với các thương tổn điển hình hơn. Đối với mày đay do cường giao cảm, thì kết hợp với yếu tố tắm nóng, hay kết hợp tăng thân nhiệt sau khi tập thể dục, thường có các sẩn phù kích thước 2 - 3mm cùng với các ban đỏ tròn lớn.
Cận lâm sàng
Nghiên cứu cận lâm sàng không chắc đã có lợi trong mày đay cấp cũng như mày đay mạn trừ khi có những yếu tố tiền sử hay qua những dấu hiệu lâm sàng gợi ý. Nguyên nhân thường gặp nhất trong mày đay cấp là thức ăn, nhiễm virus và nhiễm ký sinh trùng, do thuốc. Nguyên nhân gây mày đay mạn tính ít khi tìm được. Những bệnh nhân có những thương tổn mày đay hơi ngứa và tồn tại > 24 giờ, thì sinh thiết da có thể giúp chúng ta loại trừ mày đay do viêm mạch là một bệnh hiếm gặp. Lượng immunoglobulin, cryoglobulin, cryofibrinogen và kháng thể kháng nhân có trong mày đay do lạnh. Xét nghiệm chức năng gan là một xét nghiệm đáng quan tâm, vì mày đay mà có tiền triệu giống bệnh huyết thanh thường kết hợp với bệnh viêm gan B.
Chấn đoán phân biệt
Sẩn mày đay do côn trùng đốt có thể tồn tại trong thời gian dài. Phản ứng do côn trùng có thể có hình ảnh giải phẫu bệnh rất nặng nề và đôi khi dễ nhầm với bệnh u lympho và bệnh bạch cầu ở da. Giữa thương tổn sẩn thường lõm do con bọ chét và con muỗi mắt đốt. Mày đay thành giải gặp trong viêm da tiếp xúc dị ứng với cây cối như độc tố cây sồi, cây thường xuân và cây sơn. Mày đay tiếp xúc có thể gây ra do một loạt các chất khác nhau từ hóa chất cho tới thức ăn, rồi thuốc và có thể do một loại phản ứng với găng cao su. Mày đay tiếp xúc thường khu trú ở vùng tiếp xúc ở chất gây mày đay. Mày đay do nóng, do ánh nắng, nước hay do sức nén thường hiếm thấy. Mày đay có thể gặp trong bệnh huyết thanh, kết hợp vối sốt, đaù khớp, có hoặc không có viêm gan B. Phù do mạch gia đình, thường cố tiền sử gia đình bị phù mạch ở chi, ở đường tiêu hóa hay triệu chứng hô hấp, nhưng mày đay không phải là một phần của hội chứng. Thay vào đó bệnh nhân có những thương tổn hình vòng cung với bờ là sẩn phù và lan rộng ra xung quanh rất nhanh.
Điều trị
Liệu pháp chung
Một nghiên cứu chi tiết về nguyên nhân gây mày đay cấp sẽ được tiến hành, và điều trị rồi cũng được hoàn thiện kể cả kích thích gây bệnh. Những nguyên nhân chính của mày đay không do miễn dịch là thuốc như atropin, pilocarpin, morphin, codein. Do ký sinh trùng đốt như: côn trùng, ong (mặc dù có thể gây phản vệ cũng như phù mạch). Do yếu tố vật lý như: nóng, lạnh, ánh nắng, chấn thương, và sức nén và có thể yếu tố thần kinh như mày đay do cường giao cảm, do tập thể dục, kích động, tắm nước nóng...
Nguyên nhân miễn dịch có thể do penicillin, aspirin và các loại thuốc khác, do bụi như lông thú và bụi súc vật, do ăn tôm cua hoặc quả dâu. Do tiêm truyền huyết thanh hay vaccin, các chất tiếp xúc như hóa chất, mỹ phẩm và nhiễm khuẩn khi viêm gan.
Điều trị toàn thân
Epinephrin 1:1000, 0,3ml tiêm dưới da, được chỉ định điều trị nhanh mày đay. Epinephrin 1:200 huyền dịch, 0,1 - 0,3ml, tiêm dưới da có tác dụng kéo dài hoạt động hơn trong mày đay cấp. Tuy nhiên, cả hai loại thường chỉ có tác dụng làm giảm thương tổn tạm thời và chúng ta cần phải chú ý khi dùng cho bệnh nhân già và những người đang dùng thuốc chẹn beta.
Trụ cột trong điều trị là kháng histamin H1. Hydroxyzin, 10mg x 2 lần/ngày hoặc 25mg x 3 lần/ngày và thậm chí có thể dùng 100 mg x 3 lần/ngày có thể có hiệu quả nếu chịu được thuốc. Dùng hydroxyzin liều duy nhất vào buổi tối có thể làm giảm gây ngủ và các tác dụng không mong muốn khác. Thuốc kháng histamin của những nhóm khác nhau nên sử dụng một cách hệ thống, và liều lượng nên tăng dần theo tuần để cho tới khi chịu được thuốc. Kết hợp các loại kháng histamin với nhau thường có kết quả tốt, mặc dù vẫn chưa được khảo sát một cách hệ thống. Cyproheptadin, 4mg x 4 Iần/ngày được dùng đặc biệt trong mày đay do lạnh. Terfenadin, một kháng histamin không gây ngủ, có tác dụng rất tốt trong điều trị mày đay mạn tinh không rõ nguyên nhân với liều 60mg x 2 lần/ngày. Nếu dùng kết hợp với erythromycin, hoặc các kháng sing cùng nhóm, hay kết hợp với ketoconazol hoặc các azol khác, hoặc dùng cho các bệnh nhân có rối loạn chức năng gan có thể gây rối loạn nhịp tim thậm chí có thể dẫn tới tử vong do sự tương tác thuốc, hoặc dùng liều quá cao > 60mg x 2 lần/ngày. Thuốc này đắt hơn so với các kháng histamin khác. Thuốc không được dừng cho phụ nữ có thai và đang cho con bú. Các loại kháng histamin không gây ngủ khác - astemizol đã được thông báo là có tác dụng chính đối với những bệnh nhân mày đay mạn tính không rõ nguyên nhân có kèm viêm mũi dị ứng, người ta khuyên nên dùng liều 10 mg/ngày, liều cao hơn có thể gây loạn nhịp tim. Thời gian bán hủy dài của astemizol là bất lợi chính khi cần làm test nẩy da hoặc trong thời gian dùng thuốc mà lại có thai. Loại kháng histamin thứ ba ít gây ngủ nhất được gợi ý nên dùng là loratadin ngắn hơn so với liều dùng 10 mg/ngày, thời gian bán hủy của loratadin ngắn hơn so với astemizol và có tác dụng như các kháng histamin H1 khác. Thuốc không có tương tác với các imidazol một kháng sinh chống nấm và với các kháng sinh macrolid khác.
Doxepin (thuốc kháng trầm cảm 3 vòng ) 25mg x 3 lần/ngày, hoặc thông thường hơn, 25 - 75mg hay uống vào buổi tối có tác dụng đối với mày đay mạn, phải cẩn thận khi dùng vì có tác dụng phụ kháng tiết cholin và gây loạn nhịp tim.
Kháng histamin H2 dùng kết hợp với kháng histamin H1 có tác dụng đối với mày đay mạn mà không đáp ứng với kháng hístamin H1 đơn độc, nhưng chúng là những thuốc rất đắt và cimetiđin có thể có tương tác với doxepin và các thuốc khác.
Theo một số bác sĩ thấy cần thiết phải cho một đợt prednison với liều 40mg/ngày trong 10 ngày, cho kết quả rất mỉ mãn vì chỉ cần dùng trong thời gian ngắn, nhưng nó thường gây hậu quả phải dùng lâu dài không có loại kháng histamin nào có thể dùng. Một vài thuốc khác có hứa hẹn như chất phụ tá là thuốc chặn calci (dùng ít nhất trong thời gian 4 tuần), terbutalin, 1,25 - 2,5mg x 3 lần/ngày, colchicin 0,6mg x 2 lần/ngày, androgen loãng như danazol. Lọc huyết tương và sulfasalazin đã được thông báo để điều trị mày đay mạn tính, nhưng phương pháp điều trị này đòi hỏi phải nghiên cứu thêm. Một số bệnh nhân mày đay mạn tính phản ứng với salicylat và chế độ án kiêng tartrazin. Mặc dù salicylat rất sẵn có trong tự nhiên, thuốc và thức ăn là những nguồn rõ rệt nhất. Một nhóm chúng tôi đã chứng minh cho thấy chữa khỏi > 60% bệnh nhân mày đay mạn tính bằng cách ăn hạn chế chất gây dị ứng trong thời gian 3 tháng. Những chất kiêng cần bài trừ là các sản phẩm sữa bia, rượu và rượu táo, nấm hương, nước tương, cà chua hộp, thịt hun khói và thịt giầm, tôm cá, dấm, bánh mì chua, dưa hấu, soda, chocolate, hoa quả khồ, các sản phẩm của lạc, dâu tây. Việc điều trị mày đay mạn tính tiếp tục thất bại vl chỉ lựa chọn được một vài phương pháp điều trị hiện đang sử dụng.
Điều trị tại chỗ
Điều trị tại chỗ ít khi có hiệu quả. Tắm hồ nước ngày 2 lần hoặc tắm Aveeno có thể có giá trị, nước tắm được chuẩn bị bằng cách thêm vào 1 cốc đầy bột ngô hay một gói Aveeno vào nước tắm ấm vừa. Cũng có thể thay đổi bằng bôi dung dịch có chứa 0,5% camphor, 0,5% menthol và 0,5% phenol (Sarna) hoặc thêm dung dịch này vào nước tắm.
Tiên lượng
Mày đay cấp thường chỉ kéo dài một vài ngày tới 6 tuần. Một nửa số bệnh nhân có thương tổn mày đay tồn tại hơn 6 tuần sẽ kéo dài hàng năm.
Bài viết cùng chuyên mục
Chai chân: chẩn đoán và điều trị
Điều trị bao gồm sửa lại cho đúng các bất thường cơ học gây ra ma xát và tỳ đè. Phải đi giày vừa và điều chỉnh lại các biến dạng chỉnh hình.
Bệnh dày sừng do ánh nắng
Phương pháp điều trị nhanh và có hiệu qủa là dùng nitơ lỏng. Thương tổn bị đông lạnh sau vài giây khi dùng tăm bông nhúng trong nitơ lỏng hoặc bằng phương pháp phun.
Herpes simplex: vết loét do lạnh và do sốt
Triệu chứng cơ bản của herpes simplex là đau rát. Đau dây thần kinh có thể có trước hoặc có đồng thời với các triệu chứng khởi phát.
Các thương tổn sắc tố da
Những bớt nghi ngờ là những bớt có bờ không đều, không đối xứng hoặc bờ có tua là nơi mà sắc tố thường phát triển lan ra cả phần da bình thường quanh nó.
Ngứa: chẩn đoán và điều trị
Có nguyên nhân thông thường nhất của bệnh ngứa liên kết với bệnh toàn thân là tăng ure huyết liên quan đến bệnh tán máu.
Nguyên tắc điều trị bệnh ngoài da
Các thuốc bôi kháng sinh, neomycin là loại thuốc có khả năng gây cảm ứng lớn nhất. Dephenhydramin, Benzocain và Ethylenediamin là những chất có trong thành phần của của thuốc bôi cũng dễ gây dị ứng.
Liken phẳng: chẩn đoán và điều trị
Một dạng đặc biệt của liken phẳng là các dạng trợt. Trên lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân nó có thể làm mất khả năng hoạt động.
Tổ đỉa: chẩn đoán và điều trị
Các mụn nước trong, nhỏ, nằm rải rác ở hai bên của các ngón tay và ở lòng bàn tay, lòng bàn chân. Trông giống như hạt gạo tròn trong bột sắn. Các thương tổn này có thể rất ngứa.
Lang ben: chẩn đoán và điều trị
Dát nhạt màu cần chẩn đoán phân biệt với bạch biến, dựa vào sự xuất hiện các thương tổn. Bạch biến thường khu trú ở vùng quanh hốc tự nhiên và đầu ngón tay.
Hạt cơm: chẩn đoán và điều trị
Một số tổn thương giống hạt cơm ở các vùng da tiếp xúc ánh mặt trời thực tế lại là các ung thư tế bào gai và dày sừng quá sản do ánh nắng.
Viêm da tiết bã nhờn và bệnh gàu
Có thể có ngứa nhưng không tồn tại hằng định. Các vùng da đầu, mặt, ngực, lưng, rốn, các nếp của da có thể nhờn hoặc khô với vảy khô hoặc vảy vàng nhờn. Bờ mi cũng có thể có tổn thương.
Viêm quầng: chẩn đoán và điều trị
Thương tổn không bao giờ hóa mủ và hoại tử và khi khỏi không để lại sẹo. Bệnh có thể biến chứng gây rách da tạo cơ hội cho vi khuẩn xâm nhập.
Viêm da dạng herpes
Bệnh nhân có viêm ruột nhạy cảm với gluten, nhưng đôi với phần lớn bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng.
Những hình thái bất thường của móng
Điều quan trọng là phải, phân biệt được giữa rối loạn móng do bẩm sinh, hay di truyền với bệnh móng do sang chấn, và môi trường.
Trứng cá đỏ
Không có một yếu tố đơn độc nào giải thích đúng căn nguyên và sinh bệnh học của bệnh trứng cá đỏ. Một thống kê cho thấy có sự kết hợp giữa đau nửa đầu với bệnh trứng cá đỏ.
Ung thư sắc tố
Tử vong do ung thư sắc tố đang tăng với tỉ lệ nhanh hơn so với tỉ lệ tử vong do các loại ung thư khác, trừ ung thư phổi. Tuổi trung bình chết do ung thư sắc tố ít hơn do các loại ung thư da khác.
Bệnh nấm móng
Bệnh nấm móng thường khó điều trị vì đòi hỏi thời gian điều trị dài và bệnh hay tái phát. Nấm móng tay đáp ứng điều trị tốt hơn nấm móng chân.
Ung thư tế bào đáy
Một số ít tổn thương có thể loét và gây một sự phá hủy lớn, cuối cùng xâm nhập các cấu trúc sống và hiếm khi xâm nhập vào não, gây tử vong.
Loét da do tỳ đè
Nếu vết loét lan rộng rất nhanh có thể là loét của viêm da mủ hoại tử kết hợp với bệnh viêm đường ruột.
Các thương tổn ở da do động vật chân đốt
Trong các kẽ hở của giường và đồ gỗ, các vết cắn có xu hướng theo đường thẳng hoặc thành đám. Mày đay sẩn là một tổn thương đặc trưng cho các vết cắn của rệp.
Chẩn đoán các bệnh lý da
Tiền sử cũng rất quan trọng trong việc đánh giá sự thất bại trong điều trị. Đối với chuyên khoa ngoài da, trong phần tiền sử này cần có chi tiết cụ thể về cách bệnh nhân đã sử dụng các thuốc bôi như thế nào.
Viêm nang lông
Viêm nang lông do vi khuẩn gram âm, bệnh thường phát triển ở những người đang điều trị trứng cá bằng kháng sinh, có thể bệnh biểu hiện như một đợt bột phát của trứng cá mủ và trứng cá nốt.
Sarcoma Kaposi: chẩn đoán và điều trị
Các tổn thương sarcoma Kaposi ở nhóm bệnh nhân này thường kèm theo thương tổn ở phổi và đường dạ dày ruột cũng như da.
Viêm da bong vảy: chứng đỏ da tróc vảy
Các triệu chứng có thể gồm ngứa, mệt, ớn lạnh, sốt và sút cân. Rét run có thể nổi bật. Bong vảy da có thể toàn thân hoặc rộng và đôi khi cả rụng lông tóc và móng.
Tàn nhang và nốt ruồi, dày sừng da mỡ
Những thương tổn này thường tăng số lượng tế bào sắc tố, và chúng không bị nhạt màu đi khi không còn tiếp xúc với ánh nắng, chúng được coi như tất cả các thường tổn sắc tố khác.