- Trang chủ
- Thông tin
- Chẩn đoán và điều trị theo y học hiện đại
- Chẩn đoán bệnh lý: tổng hợp các bước của quá trình
Chẩn đoán bệnh lý: tổng hợp các bước của quá trình
Phương pháp chính xác để đạt được chẩn đoán có thể sẽ có phần khó hiểu cho những người mới bắt đầu thực hành lâm sàng. Những người chẩn đoán giỏi lúc nào cũng sử dụng một vài kỹ năng bổ trợ mà đã thu lượm được qua hàng năm hoặc hàng chục năm kinh nghiệm.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Quá trình chẩn đoán
Qua thời gian và quá trình thực hành, hầu hết các thực tập sinh đòi hỏi cần phải có kỹ năng cần thiết để thu thập bệnh sử, khám lâm sàng thành thạo và phân tích các test cơ bản. Giai đoạn kế tiếp là chuyển các dữ liệu lâm sàng thô thành một chẩn đoán. Mục đích chủ yếu của cuốn sách này là chỉ cho bạn thấy làm thế nào để có thể làm được như vậy.
Phương pháp chẩn đoán
Phương pháp chính xác để đạt được chẩn đoán có thể sẽ có phần khó hiểu cho những người mới bắt đầu thực hành lâm sàng. Những người chẩn đoán giỏi nhất lúc nào cũng sử dụng một vài kỹ năng bổ trợ mà đã thu lượm được qua hàng năm hoặc hàng chục năm kinh nghiệm. Những cái đó thường đã được đi vào tiềm thức của họ và do đó thật khó để giải thích được. Kết quả là quá trình chẩn đoán có thể được dạy một cách khô khan và do đó đối với người học thì đa phần có được đơn giản chỉ qua những kinh nghiệm gián tiếp từ việc quan sát của họ.
Giống như một người thực hành lâm sàng chưa có kinh nghiệm, bạn không thể trông đợi rằng có thể đạt được các kỹ năng chẩn đoán trong một sớm một chiều được mà mục đích của cuốn sách này nhằm chỉ cho bạn thấy làm thế nào để đưa ra một chẩn đoán trong phần lớn các trường hợp thường gặp và những biểu hiện lâm sàng quan trọng. Ở bước đầu tiên này, có hai cách tiếp cận có tính đối lập cao và lâu bền có thể được cân nhắc để đi đến chẩn đoán đó là: nhận dạng mẫu (pattern recognition) và phân tích khả năng (probability analysis). Các phương pháp nàyminh họa những nguyên lý cơ bản của lập luận chẩn đoán tuy nhiên cả hai đều có những khiếm khuyết đáng kể gây hạn chế việc áp dụng trong thực hành lâm sàng hàng ngày.
Nhận dạng mẫu
Chẩn đoán được đưa ra dựa trên các đặc điểm nhận dạng đặc trưng của bệnh lý trên bệnh nhân mà bạn đã bắt gặp trước đây ở những bệnh nhân khác với rối loạn tương tự. Đối với hầu hết mọi người, các thông tin bằng hình ảnh sẽ thúc đẩy quá trình gợi lại trí nhớ một cách mạnh mẽ, do đó mà kỹ thuật này đặc biệt hữu dụng trong những bệnh lý mà các bất thường về bên ngoài rõ ràng chẳng hạn như các bệnh lýda. Các hình ảnh thị giác động có thể được liên tưởng tốt hơn. Các nhà điểu cầm học (omithologist) thường mô tả làm thế nào để họ nhận biết một con chim bởi 'jizz' của nó - sự phối hợp của vẻ bề ngoài, cách di chuyển và tập tính của chúng. Ở một số bệnh lý như là chứng Parkinson có thể được xác định chắc chắn bằng phương pháp tương tự.
Nhận dạng mẫu có thể là một kỹ thuật mạnh mẽ đặc biệt là khi chúng được vận dụng bởi một bác sĩ có kinh nghiệm. Về lý thuyết, nó đòi hỏi bạn phải từng bắt gặp chính bệnh cảnh như vậy trước đó, hoặc ít ra cũng là bệnh cảnh rất giống trước đó, và vì vậy mà nó ít phù hợp với những người mới bắt đầu. Tuy nhiên, phương pháp chẩn đoán được sử dụng phổ biến bởi sinh viên y và các bác sĩ trẻ thực ra là biến thể của phương pháp tiếp cận này. Sự khác biệt lớn nhất là 'cơ sở dữ liệu' đối với các mẫu của họ tương tự như các triệu chứng và dấu hiệu được mô tả trong sách giáo khoa hơn là các ví dụ thực tế. Điều này có một vài bất tiện đáng kể.Thứ nhất là những mô tả của các dấu hiệu thực thể trong sách giáo khoa hoặc bài giảng, chẳng hạn như dấu rung vê thuốc (pill-roll tremor) hoặc dáng đi cập rập (festinating gait) thật khó để có thể thay thế được cho việc trải nghiệm nó trực tiếp một lần. Sách giáo khoa cũng có xu hướng trình bày một cách lý tưởng hóa theo cách thức biểu hiện bệnh, phải nhấn mạnh rằng các triệu chứng và dấu hiệu kinh điển thường khá hiếm gặp trong thực hành lâm sàng hàng ngày.Tương tự như vậy, việc học dựa vào sách giáo khoa không cho phép bạn đánh giá đúng những biến đổi vô cùng tinh vi của các biểu hiện tồn tại với một bệnh tương tự. Nhận dạng mẫu có thể bị sai ngay cả với bác sĩ lâm sàng kinh nghiệm nhất khi bệnh có biểu hiện không điển hình hoặc khi các đặc điểm đặc trưng bị che lấp, chẳng hạn bệnh nhân với hội chứng vành cấp có đau nhói ngực hơn là cảm giác đè ép, nặng ngực hoặc bệnh nhân đái tháo đường không có cảm giác đau hoặc bất kỳ cảm giác khó chịu nào bởi vì đồng thời tồn tại bệnh lý thần kinh tự động. Xu hướng sai như vậy sẽ tăng lên bội phần khi các tình trạng đó không được trải nghiệm lặp đi lặp lại trong thực tế.
Phân tích khả năng
Trong phần lớn các trường hợp, không có một triệu chứng, dấu hiệu hoặc test đơn độc nào đủ mạnh để có thể cho phép bạn xác định hoặc loại trừ được một chẩn đoán nào đó. Tuy nhiên, mỗi đặc điểm trong số chúng sẽ làm tăng hoặc giảm đối với khả năng của chẩn đoán. Giá trị chẩn đoán của từng triệu chứng, dấu hiệu hoặc test có thể được thể diện dưới dạng tỉ số khả dĩ (likehood ratio - LR). LR là tỷ lệ số bệnh nhân mắc bệnh lý đặc trưng có biểu hiện triệu chứng, chia cho số bệnh nhân không mắc bệnh có biểu hiện triệu chứng. Chú ý rằng biểu hiện có thể dương tính (có sự hiện diện dấu hiệu) hoặc âm tính (không xuất hiện dấu hiệu).
Nếu giá trị của LR >1, khả năng của bệnh tăng; giá trị LR càng cao thì tính khả dĩ của bệnh càng lớn. Nếu giá trị LR <1 thì khả năng của bệnh giảm. Ví dụ như với LR =5 làm tăng khả năng tuyệt đối của một bệnh lên khoảng 30% và LR = - 0.2 làm giảm khả năng của bệnh xuống khoảng 30%.
Các LR là sẵn có cho nhiều đặc điểm lâm sàng và các test. Về lý thuyết, điều này cho phép bạn sử dụng thông tin thu thập được để tính toán khả năng của một bệnh. Tuy nhiên, trước khi bạn có thể làm được điều này, bạn cần phải biết khả năng của bệnh trước test (pre-test probability) của bệnh nhân có bệnh đang nhi ngờ đó. Nói một cách khác là tỷ lệ ước đoán của một bệnh trong dân cư với những đặc điểm cơ bản giống với của bệnh nhân. Ngoài ra, khả năng trước test có thể bị ảnh hưởng bởi tuổi, giới, nguồn gốc chủng tộc, nghề nghiệp, nền tảng xã hội và lịch sử trước đó, cũng như là bối cảnh lâm sàng ở nơi bạn làm việc (môi trường vùng sâu vùng xa so với thành thị, chăm sóc ban đầu so với chăm sóc thứ cấp). Ví dụ, khả năng của sốt rét do Plasmodium falciparum là nguyên nhân của đau đầu, đau cơ và sốt ở một người 19 tuổi trước đó khỏe mạnh, không có tiền sử du lịch sống ở Anh giữa vùng dịch tễ cúm mùa đông là rất nhỏ, nhưng nó sẽ cao hơn rất nhiều đối với một người tương tự s ống ở trung Sahara, Châu Phi.
Một vấn đề khác khi sử dụng LR để tính toán khả năng phụ thuộc vào sự cố gắng để phối hợp thông tin từ các triệu chứng, dấu hiệu và kết quả test. Điều này có thể thực hiện trong một mức độ giới hạn nào đó bởi vì bị trở ngại cần có các biểu hiện độc lập với nhau - một phạm vi không chắc chắn đáng kể. Trong thực hành, không phải khi nào cũng có thể phối hợp nhiêu hơn 2 hoặc 3 LR ngoài hệ thống điểm được chuẩn hóa. Đối với những bạn đọc hứng thú trong việc sử dụng LR để tính toán khả năng chẩn đoán.
Trong thực hành lâm sàng hàng ngày, cách tiếp cận này có hai ứng dụng quan trọng. Thứ nhất, kiến thức về các LR của các triệu chứng, yếu tố nguy cơ, dấu hiệu lâm sàng riêng biệt cho phép xác định với giá trị chẩn đoán cao nhất, như một quy tắc bất thành văn rất dễ nhớ (rough rule of thumb) đó là khi giá trị LR 0.5-2 thì hiếm khi có giá trị hữu dụng, trong khi giá trị >5 hoặc <0.2 thường có giá trị lâm sàng. Thứ hai là trong một số điều kiện, LR được sử dụng để phát triển và công nhận các lược đồ chẩn đoán mà cho phép xác định hoặc loại trừ chẩn đoán dựa trên ngưỡng khả năng của chẩn đoán. Một ví dụ điển hình là thang điểm Wells cho huyết hối tĩnh mạnh sâu và thuyên tắc phổi.
Phương pháp tiếp cận khác: các hướng dẫn chẩn đoán phù hợp
Đối với những bác sĩ thiếu kinh nghiệm, cả việc nhận dạng mẫu kém cũng như phân tích khả năng cứng nhắc đều không mang lại phương thức thiết thực và thỏa đáng để tiếp cận được suy luận chẩn đoán. Do vậy chúng tôi tán thành một hệ thống thay thế mà có thể có được ưu điểm của cả hai phương pháp trên nhưng dễ dàng áp dụng trong thực hành hàng ngày và không dựa vào kinh nghiệm lâm sàng quá nhiều. Chúng tôi xây dựng hệ thống này theo mẫu 'các hướng dẫn chẩn đoán' riêng lẻ cho tất cả các vấn đề lâm sàng thường gặp. Một khi kinh nghiệm của bạn đủ rộng và sâu hơn, bạn sẽ bắt đầu sử dụng những phương pháp đặc trưng của riêng mình, nhưng khi mới bắt đầu thì đi theo một cấu trúc khuôn mẫu đã được thiết lập sẽ giúp bạn hạn chế những điều ngớ ngẩn và những sai lầm nghiêm trọng.
Mục đích của các hướng dẫn không phải để chỉ cho bạn những câu hỏi nào cần hỏi hay là các bước khám lâm sàng nào cần thực hiện, mà những điều này đã được đề cập sơ bộ và cũng sẽ tương tự cho hầu hết các biểu hiện. Đúng hơn hướng dẫn này để giải thích làm thế nào để sử dụng thông tin bạn lấy ra từ bệnh sử, khám lâm sàng và các test ban đầu để đi đến được một chẩn đoán.
Để làm được điều này, chúng tôi tập trung vào phần có giá trị nhất của dữ liệu chẩn đoán - các đặc điểm của triệu chứng, dấu hiệu và kết quả test với khả năng cao nhất để thu hẹp chẩn đoán phân biệt hoặc để khẳng định/loại trừ các bệnh lý nghi ngờ.
Tất cả các hướng dẫn đều đi theo một cách tiếp cận logic và chắc chắn và được thiết kế để phản ánh quá trình thực hành lâm sàng hiện đại. Chúng cung cấp một khung bảo đảm để làm việc nhưng không phải là một giao thức (protocol) cứng nhắc và cho phép linh động trên lâm sàng.
Sự ưu tiên lớn nhất luôn là các vấn đề đe dọa tính mạng tức thì. Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là tập trung vào mục tiêu của đánh giá hơn là chẩn đoán, chẳng hạn như đánh giá mức độ nặng và xác định yêu cầu hồi sức. Mục đích tiếp theo là để loại trừ các bệnh lý chính bất cứ khi nào cần thiết, đối từng rỗi loạn có khả năng xảy ra nghiêm trọng nhất, hướng dẫn này sẽ xác định những bệnh nhân nào cần tiếp tục được đánh giá bổ sung để khẳng định/loại trừ chẩn đoán. Do đó chúng tôi ưu tiên thông tin chẩn đoán với hiệu quả cao nhất đồng thời tránh những dữ liệu không làm thay đổi khả năng đáng kể hoặc không hỗ trợ trong việc thăm dò cận lâm sàng hướng đích. Trong những tình huống mà thông tin thu được từ các xét nghiệm thường quy ít có khả năng cung cấp một chẩn đoán rõ ràng thì chúng ta có thể lựa chọn để đưa ra một chiến thuật thăm dò bổ sung nhằm thu hẹp chẩn đoán phân biệt.
Làm thế nào để sử dụng các hướng dẫn chẩn đoán
Bước đầu tiên trong sử dụng các hướng dẫn là xác định xem liệu có hướng dẫn nào thích hợp nhất cho bệnh nhân của bạn hay không. Chắc chắn rằng bạn phải làm sáng tỏ bản chất của vấn đề; một bệnh nhân có biểu hiện với một cú ngã có thể đã có ngất thoáng qua, hoặc khi bệnh nhân có một 'điệu bộ hài hước' (funny turn) có thể có liệt khu trú chi dưới. Nhìn chung bạn nên chọn hướng dẫn phù hợp với phàn nàn chính của bệnh nhân. Tuy nhiên, nếu biểu hiện có hai hoặc nhiều hơn những triệu chứng liên quan với nhau như đau bụng + khó nuốt; khó thở + ho ra máu, chúng tôi khuyên chọn triệu chứng mà có chẩn đoán phân biệt hẹp hơn (khó nuốt hoặc ho ra máu ở các ví dụ trên).
Sau khi đã chọn hướng dẫn nào để sử dụng, phương thức chung sẽ tuân theo:
Mỗi hướng dẫn bắt đầu với chăn đoán phân hiệt: tóm tắt các chẩn đoán quan trọng để cân nhắc từng vấn đề.
Sau đó chúng tôi trình bày một tổng quan của đánh giá: mục này là những kiến thức thiết yếu cho sơ đồ đi đến chẩn đoán. Điều quan trọng là hiểu được định dạng của mục tổng quan.
Mối phần tổng quan sẽ đi kèm với đánh giá từng bước (step-by-step). Đây là một phần song hành tương ứng của phần tổng quan mà được giải thích và mở rộng trong từng bước riêng biệt.
Một số chương còn bao gồm các chi tiết trong đánh giá bổ sung các rối loạn hoặc bất thường thường gặp mà có thể được xác định trong suốt quá trình đánh giá ban đầu.
Các giai đoạn hành động - chúng chứa các bước đánh giá cần phải thực hiện. Điều này sẽ luôn bao gồm một hoặc hai phương pháp cơ bản của đánh giá lâm sàng cộng thêm với các test cơ bản cần thiết như ECG, CXR, và bất kỳ bước thăm khám bổ sung cần thiết nào khác. Lưu ý: Quá trình chẩn đoán phải đảm bảo răng bạn đã thực hiện những bước này và đã rút ra được thông tin lâm sàng tương ứng.
Các giai đoạn suy nghĩ và lập luận - chúng không cho biết 'điều gì phải làm ngay' mà là 'điều gì cần phải nghĩ tới ngay'. Mỗi bước được đánh số trong quá trình chẩn đoán đi kèm với những lý giải chi tiết trong mục đánh giá từng bước.
Điểm kết thúc có khả năng của quá trình chẩn đoán. Tương tự, phần giải thích cũng được đưa ra trong phần đánh giá từng bước tương ứng. Trong một số trường hợp, các thăm dò bổ sung có thể cần được thực hiện để xác định, tinh lọc chẩn đoán, đánh giá độ nặng hoặc hướng dẫn điều trị tối ưu.
Bài viết cùng chuyên mục
Đau bụng cấp: bệnh nhân rất nặng với chỉ số hình ảnh và xét nghiệm
Nếu xquang ngực không chứng minh có khí tự do hoặc tương đương nhưng nghi ngờ trên lâm sàng cao như đau bụng dữ dội khởi phát đột ngột với tăng cảm giác đau, đề kháng vùng thượng vị, cho chụp CT nhưng trước tiên cho làm amylase và ECG.
Tiếng thổi tâm trương: phân tích triệu chứng khi nghe tim
Tiếng thổi tâm trương thường do hẹp van hai lá hoặc van ba lá hoặc hở van động mạch chủ hoặc van động mạch phổi, tiếng thổi tâm trương thường không được coi là bệnh lý.
Chảy máu cam: phân tích triệu chứng
Chảy máu cam là kết quả của sự tương tác của các yếu tố gây tổn thương lớp niêm mạc và thành mạch, một số là cục bộ, một số là hệ thống và một số là sự kết hợp của cả hai.
Thiếu máu: phân tích triệu chứng
Thiếu máu chỉ là một triệu chứng của bệnh chứ không phải bản thân bệnh. Bất cứ khi nào thiếu máu được tìm thấy, nguyên nhân phải được tìm kiếm.
Lập luận chẩn đoán từ nhiều dấu hiệu và triệu chứng không độc lập
Trong thực tế, nhiều dấu hiệu, triệu chứng và kết quả xét nghiệm thường không độc lập, bởi vì sự hiện diện của một phát hiện làm tăng xác suất xuất hiện của một phát hiện khác.
Tiếp cận bệnh nhân bị bệnh thận
Bệnh thận có thể là cấp hoặc mãn, suy thận cấp thì chức năng thận xáu đi từng giờ hoặc từng ngày làm ứ đọng sản phẩm chuyển hóa nitơ trong máu.
Lách to: phân tích triệu chứng
Nhiều nguyên nhân gây lách to có thể được nhóm thành các loại sau: giải phẫu, huyết học, nhiễm trùng, miễn dịch, ung thư, thâm nhiễm và xung huyết.
Giai đoạn cuối đời của bệnh nhân
Trải nghiệm của bệnh nhân vào cuối của cuộc sống bị ảnh hưởng bởi những kỳ vọng của họ về cách họ sẽ chết và ý nghĩa của cái chết.
Chiến lược sử dụng thuốc giảm đau
Nếu cơn đau không thể kiểm soát mà không có tác dụng phụ khó chịu của thuốc, các bác sĩ nên xem xét sử dụng liều thấp hơn của nhiều loại thuốc, được thực hiện thường cho đau thần kinh
Định hướng chẩn đoán khó nuốt
Bệnh nhân với khó nuốt cần loại trừ các bệnh lý nghiêm trọng, trừ khi tiền sử chỉ ra vấn đề miệng hầu, kiểm tra thực quản để loại trừ tắc nghẽn cơ học.
Tiêu chảy tái phát (mãn tính): phân tích đặc điểm lâm sàng
Tiến hành khám xét đại trực tràng để loại trừ ung thư/bệnh lý ruột viêm nếu bệnh nhân bị tiêu chảy kéo dài kèm theo với bất kỳ dấu hiệu: chảy máu khi thăm khám trực tràng, khối sờ thấy vùng bụng/trực tràng, sụt cân, thiếu máu thiếu sắt.
U sắc tố (melanoma) ác tính
Trong khi bề mặt khối u ác tính lan truyền phần lớn là một bệnh của người da trắng, người thuộc các chủng tộc khác vẫn có nguy cơ này và các loại khác của các khối u ác tính.
Đau ngực: phân tích triệu chứng
Nguyên nhân của đau ngực thường lành tính và không do tim, cách tiếp cận tiêu chuẩn là cần thiết, do bỏ sót một tình trạng đe dọa đến tính mạng.
Đánh trống ngực: đánh giá dựa trên loại rối loạn nhịp tim
Đánh giá tần suất và cường độ của các triệu chứng và ảnh hưởng lên nghề nghiệp và lối sống. Xác minh hiệu quả và tác dụng phụ của những đợt điều trị trước.
Đau thắt lưng: khám cột sống thắt lưng
Việc khám nên bắt đầu khi gặp bệnh nhân lần đầu và tiếp tục theo dõi, quan sát dáng đi và tư thế, không nhất quán giữa chức năng và hoạt động có thể phân biệt giữa nguyên nhân thực thể và chức năng đối với các triệu chứng.
Tiếp cận bệnh nhân, Tuân thủ điều trị
Phỏng vấn thu thập thông tin hỗ trợ chẩn đoán, hướng dẫn tuân thủ điều trị thuốc, hướng dẫn chế độ sinh hoạt của bệnh nhân và nguyên tắc đạo đức giữa bác sỹ và bệnh nhân
Sốt không xác định được nguồn gốc (FUO)
Các thuật toán tiêu chuẩn cho sốt không xác định được nguồn gốc rất khó để suy luận cho bệnh nhân, Tuy nhiên, kết quả của lịch sử, khám lâm sàng, xét nghiệm thường quy
Sốt: đánh giá dấu hiệu triệu chứng và các yếu tố nguy cơ
Mở rộng tầm soát nhiễm trùng ở các bệnh nhân đặc biệt. Các chủng tác nhân hiện hành thường gặp như viêm phổi có thể khác nhau tùy theo dịch tễ từng vùng, do đó hội chấn với chuyên gia truyền nhiễm ngay ở giai đoạn ban đầu.
Đau bụng cấp: đánh giá khẩn cấp tình trạng nặng của bệnh nhân
Hãy nhớ rằng những bệnh nhân trẻ, khỏe mạnh thường duy trì huyết áp trong trường hợp mất nhiều dịch, với những bệnh nhân này giảm huyết áp xảy ra muộn, nên phải xem xét cẩn thận những yếu tố như tăng nhịp tim, hạ huyết áp tư thế.
Mất thính lực: phân tích triệu chứng
Mất thính lực có thể được chia thành ba loại nguyên nhân: mất thính lực dẫn truyền, mất thính lực thần kinh tiếp nhận và mất thính lực hỗn hợp.
Khối u ở vú: phân tích triệu chứng
Đánh giá khối u ở vú nên bắt đầu bằng việc hỏi bệnh sử đầy đủ và khám thực thể. Điều quan trọng là phải xác định nguy cơ mắc bệnh ung thư vú của bệnh nhân.
Định hướng chẩn đoán đau ngực từng cơn
Đau ngực từng cơn có thể là cơn đau thắt ngực do tim, cũng có thể do các rối loạn dạ dày thực quản, những rối loạn của cơ xương, cơn hen phế quản hoặc lo lắng.
Điều trị đau không dùng thuốc và diễn biến cuối đời
Nhiều bệnh nhân bị bệnh nan y chết trong tình trạng mê sảng, rối loạn ý thức và một sự thay đổi nhận thức mà phát triển trong một thời gian ngắn và được thể hiện bằng cách giải thích sai
Lú lẫn mê sảng do hạ natri máu: các bước đánh giá lâm sàng
Giảm nhanh Na+ huyết tương có thể dẫn đến phù não đe dọa tính mạng và yêu cầu phải điều chỉnh nhanh chóng. Ngược lại giảm từ từ Na+ cho phép các neuron thần kinh điều chỉnh thích nghi áp lực thẩm thấu.
Đau bụng mạn tính (từng giai đoạn): đặc điểm từng bệnh lý cụ thể
Đau bụng mạn tính là đau tồn tại trong hơn sáu tháng và xảy ra không có bằng chứng của một rối loạn về thể chất cụ thể. Nó cũng không liên quan đến các chức năng của cơ thể (chẳng hạn như kinh nguyệt, nhu động ruột hoặc ăn uống), thuốc hoặc độc tố.