Hạt bông
Hạt bông sao vàng 5g, cam thảo 2g, nước 600ml, sắc còn 200ml. Chia ba lần uống trong ngày (đơn ghi trong Hoà hán dựơc ứng dụng phương). Xưa kia Nhật Bản có ra một số biệt dược lợi sữa.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Hạt bông nói đây là hạt của cây bông cho ta sợi để dệt vải. Hạt bông sau khi đã lấy sợi đi rồi, trước khi người ta đổ bỏ đi, gần đây người ta đă dùng ép lấy dầu để thấp và nấu xà phòng hoặc để ăn sau khi đã loại chất gossypola đi rồi.
Mô tả cây
Hạt quả bông
Thành phần hoá học của hạt bông
Trong hạt bông có chừng 17-30% dầu, nếu chỉ tính nhân không tỷ lệ lên tới 35-40%. Dầu hạt bông là một thứ dầu nửa khô, có chứa chừng 20-22% panmitin (palmitin), 4% stearin (stearine), 30-35% olein, 42-45% linolein (linoleine) và 1% chất không xà phòng hoá được.
Dầu bông ép nguội có màu vàng nhạt, không mùi vị, có chứa sinh tố E.
Hạt bông có chứa hai chất độc: Gossypola vàng và gossypola đỏ. Cả hai chất này đều có chứa trong lá mầm.
Gossypola là một chất có chứa phenol và anđêhyt.
Gossypola uống ít độc, tiêm mạch máu độc hơn, tiêm 0,50g vào phúc mạc con thỏ sẽ chết sau 4 ngày.
Gossypola bị phá bởi nhiệt để cho một chất ít độc hơn, cho nên khô dầu bông ép nóng ít độc hơn khô dầu ép nguội.
Muốn tìm gossypola thêm H2S04 vào dầu sẽ thấy màu đỏ, hoặc nếu thêm FeCl3 sẽ có màu xanh lục.
Tác dụng dược lý
Người ta thấy hạt bông sau khi đã loại chất eossypola có tác dụng lợi sữa, trong sữa tỷ lệ bơ và cađêin tăng lên.
Công dụng và liều dùng
Làm thuốc lợi sữa, dùng với liều 5g, dưới dạng thuốc sắc.
Đơn thuốc
Hạt bông sao vàng 5g, cam thảo 2g, nước 600ml, sắc còn 200ml. Chia ba lần uống trong ngày (đơn ghi trong Hoà hán dựơc ứng dụng phương). Xưa kia Nhật Bản có ra một số biệt dược lợi sữa chế từ hạt bôngvới tên lactaogon (lactaogol), mamain, lactomin (lactomil) V V....
Bài viết cùng chuyên mục
Đương quy
Đương quy hiện nay ta vẫn phải nhập của Trung Quốc, và Triều Tiên, ta đã nhiều lần thí nghiệm trồng nhưng mới thành công trong phạm vi nhỏ ở Sapa.
Ô rô
Mùa hạ và mùa thu, đang lúc hoa nở thì hái toàn cây, phơi khô mà dùng. Hái vào mùa thu người ta cho là tốt hơn.
Mít: cây thuốc lợi sữa an thần
Quả non luộc làm rau ăn, Hạt nướng hay luộc ăn ngon, thơm và bùi, gỗ quý, màu vàng, không mọt, dùng làm nhà, làm đồ đạc và tạc tượng.
Cây bông
Nhân dân ta và một số nước khác dùng làm thuốc điều kinh. Nó gây co bóp tử cung giống như sự co bóp tự nhiên khi đẻ. Liều dùng 3g đến 5g dưới dạng sắc.
Thiên lý
Tên khoa học Teiosma cordata (Burm.f.) Merr. (Asclepias cordata Burm.L, Pergularia minor Andr. Pergularia odoraĩissima Wight, Asclepias odoratissima Roxb.). Thuộc họ Thiên lý Asclepiadaceae.
Hương phụ (cỏ gấu)
Vào tháng 6, trên ngọn cây có 3 đến 8 cụm hoa hình tán màu xám nâu, hoa lưỡng tính, 3 nhị dài chừng 2mm, nhụy có đầu núm chia thành 2 nhánh như lông tơ.
Ích mẫu
Vể tên khoa học cùa cây trước đây căn cứ vào những tác giả trong và ngoài nước, vẫn xác định là Leonurus sibiricus L. Hiện nay theo sự điều tra đối chiếu mới.
Cây gai
Cây gai được trồng khắp nơi ở Việt Nam để lấy sợi hay lấy lá. Rễ ít được khai thác; người ta đào rể về rửa sạch đất, cắt thái miếng hoặc để nguyên rồi phơi khô hay sấy khô.
Huyết giác
Cây huyết giác thường mọc hoang tại các vùng núi đá xanh vùng Quảng Ninh, Nam Định, Hà Nam, Hà Tây, Hòa Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh. Núi đất không thấy có huyết giác.
Duyên hồ sách
Duyên hồ sách 40g, khô phàn 10g. Hai vị tán nhỏ, viên thành viên. Ngày ngậm 4-8g viên thuốc này.
Cây diếp cá
Một ý kiến khác cho rằng những dẫn xuất của đioxyflavonon, đều có tính chất của rutin nghĩa là tăng sức chịu đựng của vi ti huyết quản làm cho huyết quản khó đứt vỡ.
Ngải cứu
Hiện nay hoạt chất của ngải cứu chưa đựoc xác định, mặc dầu ngải cứu được dùng cả trong đông y và tây y. Chỉ mới biết trong ngải cứu có tinh dầu, ít tanin.
Cỏ đuôi lươn
Cỏ đuôi lươn mọc hoang ở những vùng lầy, ẩm ướt ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảnh Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Nam Bộ cũng có mọc.
Bọ mẩy
Thường hái toàn cây, bỏ rễ đem về phơi hay sấy khô mà dùng. Không phải chế biến gì, hoặc chỉ sao vàng cho thơm.
Bạch đồng nữ
Trong nhân dân, lá bạch đồng nữ hay mò trắng nói trên thường chỉ hay dùng ngoài; không kể liều lượng người ta hái lá tươi về vò nát hay giã nát lấy nước hoặc sắc lấy nước dùng tắm ghẻ.
Mướp
Cây mướp được trồng ở khắp nơi ở Việt Nam. Thường chỉ để lấy quả luộc hay xào nấu để ăn. Rất ít người dùng làm thuốc.
Đài hái
Cây đài hái là một cây rất đẹp. Hiện nay mọc hoang leo lên trên các cây to khác trong rừng, phía trên chia thành nhiều cành mọc sen kẽ nhau và phủ trên cây tựa những lá màu xanh thảm, trông rất đặc biệt.
Cây tô mộc
Cây mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi trong nước ta vì gỗ được dùng làm thuốc nhuộm gỗ và làm thuốc với tên tô mộc. Người ta dùng gỗ chẻ mỏng phơi khô.
Bán hạ
Ngoài ra còn một số cây khác nữa, cần chú ý khi dùng và nghiên cứu. Cũng nên biết rằng mặc dù cùng một cây nhưng tuỳ theo củ to nhỏ khác nhau mà cho vị thuốc tên khác nhau.
Cây hồng hoa
Nước sắc hồng hoa thí nghiệm trên tử cung cô lập và không cô lập của chuột, thỏ, mèo, chuột bạch và chó thấy có tác dụng kích thích lâu dài.
Cây ngưu tất
Hiện ta đang trồng giống ngưu tất di thực của Trung Quốc có rễ to hơn cây cỏ xước mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Có thể tìm loại cỏ xước ở nước ta dùng làm ngưu tất được.
Cây rau ngót
Lá rau ngót ngoài công dụng nấu canh, còn là một vị thuốc nhân dân dùng chữa sót nhau và chữa tưa lưỡi.
Cửu lý hương
Cây mọc hoang dại và được trồng ở một số vùng nước ta để làm thuốc, còn mọc ở nhiều nước ôn đới như Pháp, Ý, bắc châu Phi.
Thược dược (bạch thược, xích thược)
Chất axit benzoic trong thược dược uống với liều cao có thể sinh co quắp, cuối cùng mê sảng và chết. Do thành phần này, thược dược có tác dụng trừ đờm, chữa ho.
Nhội
Cây nhội được trồng lấy bóng mát ở nhiều thành phố ở Việt Nam, nhiều nhất ở Hà Nội. Còn thấy mọc hoang trong rừng. Cũng thấy mọc ở Ân Độ, MaLaixia, InĐônêxia, Châu Đại Dương.