- Trang chủ
- Dược lý
- Cây thuốc và vị thuốc chữa mẩn ngứa, mụn nhọt
- Cây đơn tướng quân
Cây đơn tướng quân
Đơn tướng quân mọc hoang ở Phú Thọ, Hà Tây, Bắc Cạn. Tại Hà Nội được trồng ở làng Đại Yên để dùng làm thuốc. Còn thấy ở miền Nam, Campuchìa, Ấn Độ.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Tên khoa học Syiygium formosum var, ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia ịormosa var. ternifolia (Roxb)Duth).
Thuộc họ Sim Myrtaceae.
Mô tả cây
Cây đơn tướng quân
Cây to cao 5-7m hay hơn. Cành nhiều, vỏ cành mềm, màu tro, có sẹo của những lá đã rụng. Cành nhò hơi dẹt, có khi ba cạnh. Lá mọc đối, đôi khi từng ba lá một, ở đầu cành lá mọc sít với nhau. Phiến lá dài 20-30cm, rộng 8-12cm, phía cuống hẹp lại, đầu lá tù, cuống rất to và ngấn. Cụm hoa tận cùng hay ngang trên thân, rộng 10cm, cao 7cm trục phụ độ nhị và đệ tam 5- 15mm. Hoa to, màu tía đỏ, nụ hoa hình lê. Quả mọng to bằng hạt dẻ hay quả táo hình cầu, thõng xuống, trên có thùy của dài và vòi. Hạt 2.
Phân bố, thu hái và chế biến
Đơn tướng quân mọc hoang ở Phú Thọ, Hà Tây, Bắc Cạn. Tại Hà Nội được trồng ở làng Đại Yên để dùng làm thuốc. Còn thấy ở miền Nam, Campuchìa, Ấn Độ, Miến Điện.
Thường hái lá bánh tẻ. Thường dùng tươi, nhưng có thể phơi hay sấy khô cũng được.
Thành phần hóa học
Chưa thấy tài liệu nghiên cứu. Sơ bộ thấy có tinh dầu (chừng 2-3%), một ít tanin. Hoạt chất khác chưa rõ.
Tác dụng dược lý
Năm 1968, Nguyễn Đức Minh (Phòng đông y thực nghiệm Viện nghiên cứu đông y, Y học thực hành 1968-số 152) đã thăm dò tính chất kháng sinh của đơn tướng quân đối với tự cầu khuẩn vàng và trực khuẩn Coli đã tới kết luận rằng: vỏ và rễ cây không có tính chất kháng sinh. Nhưng lá tươi già hoạc non, lá úa, lá rụng và nụ đều có tính kháng sinh mạnh, đặc biệt là nụ. Mùa đông kháng sình tập trung nhiều ở lá.
So sánh tính kháng sinh cùa lá tươi, lá phơi khô trong râm, ngoài nấng, sấy khô ở 70°, chưng cách thủy ở 100°c trong nửa giờ, thấy tính kháng sinh của lá đơn tướng quân không bị phá hủy khi sấy khô hay chưng cách thủy nửa giờ ở 1000C.
Các tác giả còn thử chiết hoạt chất bằng các dung môi khác nhau như ête etylic, ête dầu hỏa, cồn 90°, cồn tuyệt đối, benzen, cloroíoc, axeton, nước cốt lá, nước sắc 100°c trong 1 giờ (1g lá khô/1ml) dầu lạc, dầu ve, mỡ lợn đã đi tới kết luận là hoạt chất trong đơn tướng quân tan trong nước và hầu hết trong các dung môi hữu cơ thông thường, tốt nhất là ête dầu hỏa. Vững bền ở một môi trường có pH từ 2-9.
Tác dụng kháng sinh mạnh đối với những vi trùng Gram+, không tác dụng đối với vi trùng Gram-.
Công dụng và liều dùng
Nhân dân vẫn dùng đơn tướng quân sắc uống chữa mẩn ngứa, mề đay, dị ứng với liều mỗi ngày uống 100g lá tươi. Dùng ngoài để tắm ghẻ. Có thể dùng chữa viên họng đỏ, viêm phế quản cấp tính và mãn tính.
Có thể chế cao làm thành viên mà dùng.
Bài viết cùng chuyên mục
Cây ba chạc
Cây mọc hoang, rất phổ biến ở khấp nơi Việt Nam, miền núi cũng như đồng bằng. Còn thấy mọc ở Trung Quốc, Philipin. Người ta dùng lá tươi về nấu nước tắm ghẻ.
Cây thuốc giấu
Cây rất phổ biến ở Viêt Nam, được rất nhiều người dùng chữa những vết đứt tay chân, vết thương. Cây nhỏ, cao chừng 1-2m. Thân mẫm, màu xanh.
Cây đại phong tử
Axit béo đặc biệt đầu tiên phát hiện được đặt tên là axit gynocacdic vì khi ấy người ta cho rằng dầu đại phong tử là dầu ép từ hạt của cây Gynocardia.
Cây tùng hương
Thông ưa đất cát, trồng thông bằng hạt, sau 4 đến 5 năm trồng thì bắt đầu tỉa, phải tỉa sao cho cành đụng nhau nhưng không xen kẽ vào nhau.
Cây cà tầu
Ở Việt Nam hầu như chưa thấy sử dụng làm thuốc. Nhưng ở nhiều nước như Ân Độ, Malaixia, Thái Lan, châu úc người ta dùng toàn cây chữa ho, thông tiểu, chữa hen, sốt.
Cây ké đầu ngựa
Cây ké này mọc hoang ở khắp nơi ở Việt Nam. Hái cả cây trừ bỏ rễ phơi hay sấy khô. Hoặc chỉ hái quả chín rồi phơi hay sấy khô.
Cây hương diệp
Trước khi cây ra hoa người ta thu hoạch toàn cây và cất tinh dầu. Năng suất và chất lượng tinh dầu thay đổi tùy theo địa phương, cách chăm sóc và giống cây.
Cây khế
Trong nhân dân thường dùng lá khế giã nhỏ đắp lên những nơi bị lở sơn. Có thể dùng quả giã lấy nước mà đắp lên. Còn dùng chữa mẩn ngứa, lở loét sưng đau do dị ứng.
Hạ khô thảo
Vào mùa hạ, khi một số quả đã chín thì hái cành mang hoa và quả phơi hay sấy khô. Có người dùng cả bộ phận trên mặt đất hái về phơi hay sấy khô để dùng.
Cây đơn buốt
Ngoài cây đơn buốt mô tả trên, trong nhân dân còn dùng một cây khác cũng với tên đơn buốt hay đơn kim hay quỷ tràm tháo. Cây này chỉ khác cây trên ở chỗ lá kép gồm nhiều lá chét.
Cây đơn răng cưa
Nhân dân thường dùng lá cây này chữa mẩn ngứa dị ứng, mề đay dưới hình thức giã nát xào với mỡ bôi lên những nơi mẩn ngứa dị ứng đã rửa sạch.
Dâm bụt
Nhân dân rất hay dùng lá và hoa tươi giã nhỏ với một ít muối đắp lên những mụn nhọt đang nung mủ, khô thuốc lại thay. Mụn nhọt sẽ đỡ nhức và chóng vỡ mủ.
Cây niệt gió
Người ta dùng lá hoặc rẽ cây này. Lá hái vào mùa hạ. Rễ hái vào mùa thu, đông hay đầu mùa xuân. Hái về phơi hay sấy khô để dành mà dùng.
Cây dầu rái trắng
Cây dầu rái mọc hoang và được trồng nhiều ở Việt Nam, nhưng nhiều nhất ở miền trung Trung bộ, miền nam Trung bộ, có mọc cả ở Nam bộ, từ ven biển đến núi cao.
Cây muồng truổng
Trong rễ màu vàng, vị rất đấng có chứa ancaloit, chủ yếu là becberin. Hoạt chất khác chưa rõ. Trong quả có một ít tinh dầu mùi thơm xitronellal.
Cây vạn niên thanh
Nhân dàn một số vùng dùng cây vạn niên thanh chữa rắn cắn, sưng đau cổ họng. Dùng toàn cây 20 đến 40g tươi sắc với nước (300ml) uống trong ngày.
Cây rau má ngọ
Chân gai nở rộng ra. Bẹ chìa hình lá bao quanh thân trông như thân chui qua lá, do đó có tên períoliatum (chui qua lá). Hoa mọc thành bông tận cùng, ngắn.
Cây máu chó
Khi dùng, người ta tắm cho thật sạch, gãi cho nốt ghẻ chảy máu rồi bôi nguyên dầu đó hoặc cho thêm vào dầu một ít dầu long não cho có mùi thơm và thêm tính chất sát trùng.
Cây trầu không
Cây trầu không được trồng ở khắp nơi Việt Nam để lấy lá ãn trầu. Nó còn được trồng tại nhiều nước khác ờ châu Á, vùng nhiệt đới như Malaixia, Inđônêxya, Philipin.
Cà dại hoa vàng
Cà dại hoa vàng là một loại cỏ có thần mẫm, cao chừng 30-40cm. Lá mọc so le, hơi ôm vào thân cây, xẻ lông chim sâu, trên có lông cứng, nhọn với những đường gãn.
Cây huyết kiệt
Hiện nay chưa thấy phát hiện cây này ở Việt Nam. Huyết kiệt chủ yếu vẫn nhập của Trung Quốc, bản thân Trung Quốc cũng nhập từ Inđônêxya.
Cây keo nước hoa
Ngay quanh Hà Nội cũng có trồng một số cây nhưng ít phát triển.Trong vỏ cây keo ta có chứa tanin loại catechic được dùng để thuộc da mềm. Hàm lượng tanin khá cao.
Cây la (chìa vôi)
Thường người ta hái lá tươi về dùng. Ngoài ra còn dùng rể đào quanh năm, thái mỏng phơi hay sấy khô. Có khi dùng cả cây thái mỏng phơi hay sấy khô.
Cây xà xàng (xà sàng tử)
Mọc hoang ở những nơi đất trống trong nước ta. Thu hái vào tháng 6 đến tháng 8 là thời gian quả chín. Nhổ hay cắt cả cây về phơi khô. Đập lấy quả.
Bèo cái
Bèo cái được trồng ở khấp các nơi có hồ ao ở Việt Nam, ở nông thôn cũng như ở thành phố vì toàn cây được dùng để nuôi lợn, còn mọc ở nhiều nước nhiệt đới và ôn đới khác.