Bồ công anh
Thường nhân dân Việt Nam dùng lá, lá hái về dùng tươi hay phơi hoặc sấy khô dùng dần. Thường hay dùng tươi. Không phải chế biến gì đặc biệt.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Tên bồ công anh được dùng để chỉ ít nhất 3 cây khác nhau đều có mọc ở nước ta, cần chú ý tránh nhầm lẫn:
Cây bồ còng anh Việt Nam Lactuca indica L. họ Cúc (Asteraceae). Chữ “Việt Nam” là chúng tôi mới thêm để trấnh nhầm lẫn. Cây này được dùng phổ biến, nhất là tại phía Bắc và phía bắc Trung Bộ.
Cây bồ công anh Trung Quốc Taraxacum officinale Wigg. cũng họ Cúc (Asteraceae). Chữ “Trung Quốc” chúng tôi cũng mới thêm vào để chỉ rõ rằng tên bồ công anh ghi trong các sách Trung Quốc là cây này. Cây này có mọc hoang và được trồng ở một vài nơi trong nước ta, nhất là tại các miên núi cao như Tam Đảo, Sapa. Tuy nhiên ta hầu như không dùng loại này.
Cây Chỉ thiên Elephantopus scaber L. cũng thuộc họ Cúc (.Asteraceae). Cây này được một số anh em miền Nam nước ta dùng với tên bồ công anh. Điều đáng chú ý là tại một vài nơi ở miền nam Trung Quốc (tỉnh Quảng Táy) người ta cũng gọi cây chỉ thiên này là bồ công anh và dùng như cây bồ công anh Trung Quốc.
Bồ công anh Việt Nam
Còn gọi là bồ công anh, rau bồ cóc, diếp hoang, diếp dại, mót mét, mũi mác, diếp trời, rau mũi cày.
Tên khoa học Lactuca indica L.
Thuộc họ Cúc Asteraceae.
Mô tả cây
Bồ công anh Việt Nam
Bồ công anh là một cây nhỏ, cao 0,60m đến 1m, có thể cao tới 3m. Thân mọc thẳng, nhẵn, không cành hoặc rất ít cành. Lá có nhiều hình dạng; lá phía dưới dài 30cm, rộng 5-6cm, gần như không cuống, chia thành nhiều thùy hay răng cưa to thô, lá phía trên ngắn hơn, nguyên chứ không chia thùy, mép có răng cưa thưa. Bấm lá và thân đều thấy tiết ra nhũ dịch màu trắng đục như sữa, vị hơi đấng. Cụm hoa hình đầu, màu vàng, có loại tím.
Có người gọi cây hoa vàng là hoàng hoa địa dinh và loại hoa tím là tủ hoa địa đinh (tử là màu tím). Cả hai loại đều được dùng làm thuốc.
Phân bố, thu hái và chế biến
Bồ công anh mọc hoang tại nhiều tỉnh miền bắc nước ta; ít thấy trồng. Việc trồng rất dễ dàng bằng hạt. Mùa trồng vào các tháng 3-4 hoặc 9- 10. Có thể trồng bằng mẩu gốc, sau 4 tháng có thể bắt đầu thu hoạch.
Thường nhân dân Việt Nam dùng lá, lá hái về dùng tươi hay phơi hoặc sấy khô dùng dần. Thường hay dùng tươi. Không phải chế biến gì đặc biệt.
Một số người hái cả cây, cả rể cắt nhỏ phơi khô để dùng.
Thành phần hóa học
Chưa thấy tài liệu nghiên cứu về cây Lactuca indica L. của Việt Nam. Theo những tài liệu nước ngoài, tại một số nước người ta có sử dụng và nghiên cứu một số loài Lactuca khác như Lactuca virosa, Lactuca sativa L. (rau diếp) thấy trong có lactuxerin là một ête axetìc của hai thứ rượu nhị no lactuxerola và lactuxerola 3 ngoài ra còn 3 chất đắng có tên axít lacturic, lactucopicrin và lactuxin. Lactucopìcrin là este p. hydroxy phenylaxetic của lactuxin.
Tác dụng dược lý
Theo sự nghiên cứu của nước ngoài, những loại Lactuca nói trên không có độc, có tính chất gây ngủ nhẹ. Nhưng tại những nước này người ta không dùng lá như ở Việt Nam, mà dùng chất nhựa mủ phơi khô đen lại như nhựa thuốc phiện để dùng làm thuốc chữa ho trẻ con và dùng chữa cho trẻ con mất ngủ.
Cây Lactuca indica L. của ta chưa thấy tài liệu nghiên cứu.
Công dụng và liều dùng
Bồ công anh Việt Nam là một vị thuốc kinh nghiệm trong nhân dân để chữa bệnh sưng vú, tắc tia sữa, mụn nhọt đang sưng mủ, hay bị mụn nhọt, đinh râu.
Còn dùng uống trong chữa bệnh đau dạ dày, ăn uống kém tiêu.
Liều dùng hàng ngày: 20 đến 40g lá tươi hoặc 10 dến 15g lá khô hay cành và lá khô. Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác, thường dùng dưới dạng thuốc sắc có thêm đường cho dễ uống. Còn dùng giã nát đắp ngoài, không kể liều lượng.
Đơn thuốc trong nhân dân có vị bồ công anh
Chữa sưng vú, tắc tia sữa: Hái 20 đến 40g lá bồ công anh tươi, rửa sạch, thêm ít muối giã nát, vắt lấy nước uống, bã dùng đắp lên nơi vú sưng đau. Thường chỉ dùng 2-3 lần là đỡ (kinh nghiệm dân gian).
Chữa ăn uống kém tiêu, hay bị mụn nhọt: Lá bồ công anh khô 10 đến 15g; nước 600ml (3 bát), sắc còn 200ml (1 bát) (có thể đun sôi kỹ và giữ sôi trong vòng 15 phút). Uống liên tục trong 5 ngày, có thé kéo dài hơn.
Đơn thuốc chữa đau dạ dày: Lá bồ công anh khô 20g, lá khôi 15g, lá khổ sâm 10g. Thêm 300ml nước, sắc đun sôi trong vòng 15 phút, thêm ít đường vào mà uống (chia 3 lần uống trong ngày). Uống liên tục trong vòng 10 ngày, nghỉ 3 ngày rồi lại tiếp tục cho đến khi khỏi.
Bồ công anh Trung Quốc
Còn gọi là hoàng hoa dịa đính, nãi chấp thảo. Tên khoa học Taraxacum officinaie Wigg. Thuộc họ Cúc Asteraceae. Cây này ít thấy dùng ở Việt Nam. Nhưng lại rất phổ biến và được dùng tại các nước.
Ở Trung Quốc, dùng với tên bồ công anh hoặc là toàn cây cả rễ, hoặc là rễ tươi hay phơi hoặc sấy khô của nhiều loài bồ công anh như Taraxacum mongolìcum Hand-Mazz., Tarax- acum sinicum Kitag., Taraxacum heterolepis Nakai et H. Koidz. hoặc một số loài khác giống, cùng họ.
Tại các nước Châu Âu, người ta dùng rễ Ra-di X Taraxaci hay Taraxacum hoặc lá tươi hay khô của cây Pitsãngli (Pissenlit)-TứrứXứrum offcinale Wigg. hay Taraxacum densỉeonis Desf. cùng họ Cúc (Asteraceae).
Mô tả cây
Bồ công anh Trung Quốc
Cỏ sống dai, có rễ trụ. Lá mọc thành hoa thị ở gốc, phiến lá cất thành nhiều thùy nhỏ như răng nhọn, mềm trông giống như hàm răng sư tử do đó có tên dens leonis (có nghĩa là răng con sứ tử), từ giữa vòng lá mọc lên cuống cụm hoa màu vàng, khi già ra quả có lông màu trắng xếp thành hình cầu. Căn cứ vào màu sấc hoa, dáng lá, hình quả người ta chia ra nhiểu loại khác nhau.
Phân bố, thu hái và chế biến
Cây này mọc hoang tại những vùng núi cao ở nước ta như Tam Đảo, Sapa, Đà Lạt không rõ mọc tự nhiên hay do Pháp trước kia đưa giống vào trồng để lấy lá ăn làm rau xà lách rồi còn sót giống lại. Tại Hà Nội trước đây cũng thấy có trồng và lấy lá bán cho người Pháp, nhưng từ Cách mạng tháng tám 1945 hầu như không thấy trồng. Gần đây chúng tôi lấy giống ở Tam Đảo và Sapa về trồng lại nhưng chưa phổ biến. Cây mọc ở đồng bằng cung như miền núi rất tốt, có ra hoa kết quả.
Được trồng tại Châu Âu (làm thuốc và lấy lá làm rau ăn) tại Trung Quốc mọc hoang, không ai trồng, chỉ dùng với tính chất tự cung tự cấp.
Riêng Pháp hằng năm tiêu thụ và xuất hàng chục tấn rể khô, lá cũng được dùng nấu cao có vị đấng dung làm thuốc. Mặc dầu Pháp xuất bổ công anh nhưng nãm 1921 còn nhập 7 tấn lá và 6 tấn rẽ của nước ngoài.
Rẽ hái vào giữa mùa hè là thời kỳ có nhiều vị đắng nhất, người ta cho tác dụng của rễ và cây là ở chất đắng này. Nếu hái vào thu đông, vị đắng kém và rễ chứa nhiêu inulin ít tác dụng.
Rễ hái vể dùng tươi hay phơi hoặc sấy khô.
Có thể hái toàn cây cả rể phơi khô mà dùng.
Thành phần hóa học
Theo VVehmer (1931, Die pflanzen stữffe Bd. II) trong toàn cây bồ công anh Taraxacum officìnaIe Wigg. có chứa inozitola, 0,5% asparagin, đường khử, chất nhựa, chất đắng, saponozit, men tyrosinaza. Trong hoa có xanthophyl, trong rễ có inulin (tới 40% đối với rễ khô), saccaroza, glucoza, chất đắng có tinh thể gọi là taraxaxin C40H4QO5, inozitola, lactat canxi, một ít tinh dẩu, chất nhựa, một chất đắng chưa xác định, có thể là hỗn hợp taraxaxin và taraxaxerin. Trong nhũ dịch có chất đắng taraxerola, inozitola, taraxaxterola, chất prôtit và cao su, đường khử.
Trong lá có luteolin 7 glucozit và apigenin 7 glucozit hay cosmoziozit. Ngoài ra rất nhiều vitamin B và C.
Công dụng và liều dùng
Các nước Châu Âu dùng rễ bồ công anh làm vị thuốc bổ đắng, tẩy máu, lọc máu; lá ăn như rau xà lách và làm thuốc cùng một công dụng như rễ.
Sách Trung Quốc cổ coi bổ công anh có vị ngọt, đắng, tính hàn, vào hai kinh tỳ và vị có tác dụng giải độc, thanh nhiệt, lương huyết tán kết, thông sữa, lợi tiểu tiện dùng trong các bệnh sưng vu, mụn nhọt, tiểu tiện khó khăn, ít sữa. Ngày dùng 4 đến 12g dưới dạng thuốc sắc.
Nên chú ý nghiên cứu sử dụng những loài này hầu như chưa được dùng ở nước ta.
Chỉ thiên
Chiều cao 0,2 - 0,4 m. Mọc sát đất. Hoa mẩu tím nhạt hình hoa thị.
Bài viết cùng chuyên mục
Cảo bản
Tại Trung Quốc, liêu cảo bản chủ sản ở Hà Bắc, rồi đến Sơn Tây, Liêu Ninh, Cát Lâm, Nội Mông. Loại này vừa dùng trong nước, vừa để xuất khẩu một ít.
Cây rau má ngọ
Chân gai nở rộng ra. Bẹ chìa hình lá bao quanh thân trông như thân chui qua lá, do đó có tên períoliatum (chui qua lá). Hoa mọc thành bông tận cùng, ngắn.
Cây máu chó
Khi dùng, người ta tắm cho thật sạch, gãi cho nốt ghẻ chảy máu rồi bôi nguyên dầu đó hoặc cho thêm vào dầu một ít dầu long não cho có mùi thơm và thêm tính chất sát trùng.
Cây thóc lép
Cây mọc hoang dại ở vùng rừng núi. Mùa hoa quả vào các tháng 2-5. Nhân dân dùng rễ tươi hay phơi hoặc sấy khô. Thu hái quanh năm, thái mỏng phơi hay sấy khô.
Cây tùng hương
Thông ưa đất cát, trồng thông bằng hạt, sau 4 đến 5 năm trồng thì bắt đầu tỉa, phải tỉa sao cho cành đụng nhau nhưng không xen kẽ vào nhau.
Cây cà tầu
Ở Việt Nam hầu như chưa thấy sử dụng làm thuốc. Nhưng ở nhiều nước như Ân Độ, Malaixia, Thái Lan, châu úc người ta dùng toàn cây chữa ho, thông tiểu, chữa hen, sốt.
Cây vạn niên thanh
Nhân dàn một số vùng dùng cây vạn niên thanh chữa rắn cắn, sưng đau cổ họng. Dùng toàn cây 20 đến 40g tươi sắc với nước (300ml) uống trong ngày.
Dâm bụt
Nhân dân rất hay dùng lá và hoa tươi giã nhỏ với một ít muối đắp lên những mụn nhọt đang nung mủ, khô thuốc lại thay. Mụn nhọt sẽ đỡ nhức và chóng vỡ mủ.
Liên kiều
Thanh kiều và lão kiều cũng giống nhau, nhưng thanh kiều phần nhiều đầu quả chưa tách ra như mò chim mở, hạt còn nguyên không rơi rụng.
Bạch hạc
Cây bạch hạc mọc hoang ở nhiều tỉnh miền Bắc Việt Nam. Còn thấy mọc ở Ấn Độ, Mailaixia, đồng Châu Phi. Có khi được trồng làm cảnh.
Bồ cu vẽ
Cây mọc hoang ỏ khắp nơi trên miền Bắc và miền Trung nước ta. Hình như không thấy mọc ở miền Nam. Rải rác thấy có ở Lào và Cămpuchia. Còn thấy ở Malaixia.
Cây dầu rái trắng
Cây dầu rái mọc hoang và được trồng nhiều ở Việt Nam, nhưng nhiều nhất ở miền trung Trung bộ, miền nam Trung bộ, có mọc cả ở Nam bộ, từ ven biển đến núi cao.
Cây đơn răng cưa
Nhân dân thường dùng lá cây này chữa mẩn ngứa dị ứng, mề đay dưới hình thức giã nát xào với mỡ bôi lên những nơi mẩn ngứa dị ứng đã rửa sạch.
Bưởi bung
Người ta dùng rễ và lá, thu hái gần như quanh năm. Thường dùng tươi, có thể phơi khô dùng dần. Một số nơi hái cành mang lấ phơi khô.
Mù u
Cây mù u mọc hoang thường mọc tại những vùng đất cát tại bờ bể. Nhân dân miền Trung thường trồng lấy hạt ép dầu thắp đèn.
Cây thanh đại (cây chàm)
Tùy theo cách chế tạo, bột chàm hay thanh đại có độ tinh khiết khác nhau. Thường người ta xác định giá trị của thanh đại bằng cách định lượng indigotin.
Cây mã tiên thảo
Cây loại cỏ nhỏ, sống dai, cao từ 10cm đến 1m, thân có 4 cạnh. Lá mọc đối, xẻ thùy lông chim. Hoa mọc thành bông ở ngọn, hoa nhỏ màu xanh, lưỡng tính, không đều.
Bảy lá một hoa
Người ta thường dùng thân rễ với tên tảo hưu, có thể thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào thu đông, đào về rừa sạch, phơi khô.
Cây chè vằng
Tại miền Nam đồng bào thường dùng dây vằng để đan rế và đánh dây thừng vì dây vằng vừa dẻo lại dai.Nhân dân thường hái lá quanh năm làm thuốc hay để đun nước tắm ghẻ.
Cây lân tơ uyn
Tất cả vết thương phần mềm có miệng rộng. Nếu vết thương chột, miệng nhỏ thì phải vạch rộng, cắt lọc tốt rồi mới dùng lân tơ uyn.
Cây rong mơ
Vị đắng, mặn, tính hàn vào ba kinh can, vị và thân, có tác dụng tiêu đờm, làm mểm chất rắn, tiết nhiệt lợi thủy dùng chữa bướu cổ, thủy thũng.
Cây táo rừng
Cây mọc hoang dại ở những vùng đồi núi nơi dãi nấng hay ven rừng. Người ta dùng lá và rễ. Rễ đào về rửa sạch đất, bóc lấy vỏ, thái nhỏ phơi hay sấy khô. Lá thường dùng tươi.
Bạch hoa xà
Cây mọc hoang ở khấp nơi ở Việt Nam: Nam, bắc, miền núi, miền đồng bằng đều có. Còn thấy ở Ấn Độ, Malai xia, nam Trung Quốc. Nhật Bản, Inđônêxya, châu Phi.
Kim ngân
Hoa hay cành lá hái về phơi hay sấy khô là dùng được. Không phải chế biến gì khác. Việc bảo quản hoa và cành lá kim ngân tương đối dễ vì ít bị mốc mọt.
Cây đơn tướng quân
Đơn tướng quân mọc hoang ở Phú Thọ, Hà Tây, Bắc Cạn. Tại Hà Nội được trồng ở làng Đại Yên để dùng làm thuốc. Còn thấy ở miền Nam, Campuchìa, Ấn Độ.