- Trang chủ
- Dược lý
- Cây thuốc và vị thuốc hạ huyết áp
- Cây ba kích
Cây ba kích
Trong rễ ba kích chủ yếu có chất anthraglucozit, rất ít tinh dầu, chất đường, nhựa và axít hữu cơ. Rễ tươi có vitamin C. Theo các tài liệu cũ, chỉ có vìtamin C.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Còn có tên ba kích thiên, cây Ruột gà, chẩu phóng xì (Hảì Ninh), thao tầy cáy, ba kích nhục, liên châu ba kích.
Tên khoa học Morinda offcinalis How.
Thuộc họ Cà phê Rubiaceae.
Người ta thường dùng rễ phơi hay sấy khô (Radix Morindae) của cây ba kích.
Mô tả cây
Cây ba kích
Cây loại thảo, sống lâu năm, thần leo, lá mọc đối, cứng nhọn, dài 6-14cm, rộng 2,5-6cm, hình mác, non có màu xanh, về già có màu trắng mốc. Hoa lúc đầu trắng, sau vàng, 2-10 cánh hoa, 4 nhị. Quả hình cầu, khi chín màu đỏ.
Phân bố, thu hái và chế biến
Cây ba kích mọc hoang ở ven rừng, trên đồi râm giữa các bụi bờ, bãi hoang nhiều nhất ở Quảng Ninh (Hải Ninh, Hồng Quảng), Hà Tây, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc Giang. Nhưng hiện không đủ nhu cầu. Cần nghiên cứu trồng. Rễ đào quanh năm, tốt nhất vào thu đông. Đào về rửa sạch đất cát, phơi hay sấy khô. Khi gần khô đập dẹt rồi lại phơi cho thật khô.
Thành phần hóa học
Trong rễ ba kích chủ yếu có chất anthraglucozit, rất ít tinh dầu, chất đường, nhựa và axít hữu cơ. Rễ tươi có vitamin C. Theo các tài liệu cũ, chỉ có vìtamin c, nhưng ba kích khô không có vitamin c.
Tác dụng dược lý
Nước sắc ba kích có tác dụng làm tăng sự co bóp của ruột và giảm huyết áp, không có độc.
Công dụng và liều dùng
Tính vị theo tài liệu cố: Ba kích có vị cay ngọt, tính hơi ôn. Vào thận kình. Có tác dụng ôn thận trợ dương, mạnh gân cốt, khử phong thấp. Dùng chữa dương ủy, phong thấp cước khí, gân cốt yếu, mềm, lưng gối mỏi đau. Người âm hư, hỏa thịnh, đại tiện táo bón cấm dùng. Trong nhân dân, ba kích là một vị thuốc bổ trí não và tinh khí, dùng trong các bệnh liệt dương, sớm xuất tinh, di mộng tinh, phụ nữ kinh nguyệt không đều. Còn dũng chữa bệnh phong thấp, mạnh gân cốt. Ngày dùng 4-10g dưới dạng thuốc sắc hay cao lỏng. Nhân dân ở những nơi có cây này mọc hoang thường đào củ này về nấu với thịt gà, ăn để bồi bổ sức khỏe.
Ở Trung Quốc có dùng ba kích trong đơn thuốc “Nhị tiên thang” để chữa bệnh cao huyết ấp có kết quả. Đặc biệt đối với phụ nữ bị cao huyết áp ở thời kỳ hết kinh, kết quả thấy rõ rệt. Theo Đợi chúng y học 9/1959 trang 332 đã chữa 360 trường kết quả đạt tới 74%. Đơn thuốc như sau:
Tiên mao (Curculigo orchioides), dâm dương hoắc (Epimedium grandiflorum), ba kích (Morinda officinalis), tri mẫu (Anemarrhena asphodeloides ), hoàng bá (Phellodendron amurense), đương quy (Angelica sinensìs ) mỗi vị 12g, nước 600ml. sắc còn 200ml. Chia ba lần uống trong ngày. Thời gian điều trị 3 tháng.
Đơn thuốc khác có ba kích
Ba kích nhục 10g, thục địa 10g, nhân sâm (hoặc đảng sâm) 4g, thỏ ty tử 6g, bổ cốt toái 5g, tiểu hổi hương 2g, nước 600ml. Sắc còn 200ml, chia ba lần uống trong ngày. Dùng chữa nhũng người già yếu chân gối, tê mỏi.
Bài viết cùng chuyên mục
Cây hoa hòe
Hiện nay nhân dân dùng hoa hòe làm thuốc cầm máu, dùng trong những bệnh ho ra máu, đổ máu cam, tiểu tiện ra huyết, ruột chảy máu. Ngày uống 5 đến 20g.
Cây câu đằng
Hiện nay câu đằng được dùng làm thuốc trấn kinh, trấn tĩnh, bệnh cao huyết áp: Đầu quay, mắt hoa, trẻ con kinh giật, khóc đêm, phụ nữ xích bạch đới.
Cây nhàu
Vỏ rễ cây nhàu chứa glucozit anthraquinon gọi là morindin có tình thể hình kim màu vàng, tan trong nước sôi, ít tan trong nước lạnh, không tan trong ête.
Cây đỗ trọng
Đỗ trọng vị ngọt hơi cay, tính ồn, vào hai kinh can và thận. Có tác dụng bổ can, thận, mạnh gân cốt, an thai, dùng chữa đau lưng, đi tiểu nhiều, chân gối yếu mềm.
Cây hoàng cầm
Hoàng cầm sấy khô tán nhỏ làm thành viên to bằng hạt ngô. Ngày dùng 20-30 viên. Chữa các bệnh đổ máu cam, thổ huyết, kinh nguyệt quá nhiều, cảm mạo, ho cảm.
Cây ba gạc ấn độ
Resecpin ngoài tác dụng hạ huyết áp do dãn mạch, còn tác dụng lên trung khu vận mạch ở hành tủy, tác dụng trấn tĩnh và làm cho tim đập chậm do kích thích vagus.
Cây hồi đầu thảo
Hồi đầu thảo hiện còn là một vị thuốc dùng trong phạm vi kinh nghiệm nhân dân để giúp sự tiêu hóa, đau bụng ỉa chảy, sốt vàng da, phụ nữ kinh nguyệt không đều.
Cây mạch ba góc
Hiện nay nhân dân ta tại một số vùng chỉ mới trồng cây mạch ba góc để làm thức ăn cho gia súc và ngưòi. Một số nơi dùng lá nấu canh ăn cho sáng mắt, thính tai.
Cây ba gạc
Viện dược liệu Hà Nội đã xác định là trong rễ ba gạc của ta cũng có những ancaloit resecpin, secpentin v.v... giống như trong ba gạc Ấn Độ RauwoIfia serpentina.
Cây rau cần tây
Rau cần tây chủ yếu được dùng làm rau ăn, nấu canh. Cần tây được dùng làm thuốc lợi tiểu. Gần đây nhân dân ta thấy phổ biến dùng rau cần tây chữa bệnh huyết áp.
Cây dừa cạn
Theo kình nghiệm sử dụng trong y học dân tộc của một số nước khác có cây này mọc hoang dại, rễ dừa cạn có tác dụng tẩy giun, chữa sốt.