- Trang chủ
- Dược lý
- Cây thuốc và vị thuốc hạ huyết áp
- Cây ba gạc
Cây ba gạc
Viện dược liệu Hà Nội đã xác định là trong rễ ba gạc của ta cũng có những ancaloit resecpin, secpentin v.v... giống như trong ba gạc Ấn Độ RauwoIfia serpentina.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Còn có tên là la phu mộc, san to (Sapa), lạc toọc (Cao Bằng).
Tên khoa học Rauvolfia verticilỉata (Lour) Baill.
Thuộc họ Trúc đào Apocynaceae.
Người ta dùng rễ phơi hay sắy khô (Radix Rauwolfìae verticillatae) của cây ba gạc, hay la phu mộc. La phu mộc = dịch âm Trung Quốc của chữ Râuvonphia (Rauwolfia) tên khoa học của cây này.
Tên san to nghĩa là ba chạc, vì cây có 3 lá, chia ba cành.
Tên lạc toọc nghĩa là một rễ, vì cây có một rễ.
Mô tả cây
Cây ba gạc
Cây ba gạc là một cây nhỏ cao 1-1,50m, thân nhẵn, trên mặt thân có những lỗ sần nhỏ của bì không. Lá mọc đối, nhưng thường mọc vòng ba lá một, có khi 4-5. Hoa hình ống, màu trắng, nở vầo các tháng 4-7, có khi suốt năm ở đồng bằng. Quả từ tháng 5-10-11, hình trứng, khi chín có màu đỏ tươi.
Phân bố, thu hái và chế biến
Mọc hoang ở khắp nơi rừng núi Việt Nam: Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai (Sapa), Nam Định, Hà Nam, Thanh Hóa. Chưa được trồng. Có thể trồng bằng hạt hay dâm cành. Thu hoạch rễ quanh năm nhưng tốt nhất vào thu đông. Đào rễ về rửa sạch đất, phơi hay sấy khô. Cần chú ý bảo vệ lớp vỏ vì lớp vỏ chứa nhiều hoạt chất nhất. Từ 1959, Đỗ Tất Lợi đã phát hiện lại và đặt vấn đề khai thác để chế thuốc chữa huyết áp ở Việt Nam (1963, Die Pharmacìe 10:709-710).
Thành phần hóa học
Trong rễ và lá có ancaloit toàn phần từ 0,9- 2,12% (rễ) hoặc 0,72-1,69% (lá) trong dó chủ yếu là một ancaloit gọi là rauwolfia A có tinh thể hình chữ nhật, độ chảy 2780C, năng suất quay cực 4°83 (trong rượu metylic).
Gần đây Nguyễn Văn Đàn, Viện dược liệu Hà Nội đã xác định là trong rễ ba gạc của ta cũng có những ancaloit resecpin, secpentin v.v... giống như trong ba gạc Ấn Độ RauwoIfia serpentina.
Tác dụng dược lý
Bộ môn dược lý và sinh lý Trường đại học y dược Hà nội (1960) đã dùng nước sắc ba gạc nghiên cứu tác dụng trên huyết áp của thổ và chó thấy nước sắc ba gạc làm giảm huyết áp rõ rệt với liều lượng 0,5g/kg thể trọng súc vật.
Trên tim ếch cô lập và tại chỗ thấy nước sắc ba gạc làm chậm nhịp tim; trên hệ mạch ngoại biên của thỏ không thấy có tác dụng trên mạch máu ngoại biên. Trên ruột thỏ cô lập thấy liều nhẹ làm tăng nhu động ruột. Trên thần kinh hệ trung ương thấy không làm giảm sốt và có tác dụng an thần gây ngủ.
Trên cơ sở nghiên cứu, các bộ môn đã đi dến một số nhận xét chung như sau: Nước sắc ba gạc Việt Nam (RauWoỉfìa verticìllata) so với tác dụng của ba gạc ăn Độ (Rauwolfia serpentina) thì giống nhau, chủ yếu là:
Làm giảm huyết áp do nguồn gốc trung ương, chứ không phải do mạch ngoại biên.
Làm tim đập chậm.
Có tác dụng an thần và gây ngủ.
Công dụng và liều dùng
Hiện nay ta chế dưới dạng cao lỏng 1g cao-1g vỏ rễ để chữa cao huyết áp, an thần.
Liều trung bình của cao lỏng 30 giọt một ngày. Có thể tăng lên tới 45 và 60 giọt. Thời gian điều trị có thể kéo dài nhưng thường sau 10-15 ngày cần nghỉ.
Có thể chế thành dạng viên ancaloit toàn phần.
Bài viết cùng chuyên mục
Cây hồi đầu thảo
Hồi đầu thảo hiện còn là một vị thuốc dùng trong phạm vi kinh nghiệm nhân dân để giúp sự tiêu hóa, đau bụng ỉa chảy, sốt vàng da, phụ nữ kinh nguyệt không đều.
Cây rau cần tây
Rau cần tây chủ yếu được dùng làm rau ăn, nấu canh. Cần tây được dùng làm thuốc lợi tiểu. Gần đây nhân dân ta thấy phổ biến dùng rau cần tây chữa bệnh huyết áp.
Cây câu đằng
Hiện nay câu đằng được dùng làm thuốc trấn kinh, trấn tĩnh, bệnh cao huyết áp: Đầu quay, mắt hoa, trẻ con kinh giật, khóc đêm, phụ nữ xích bạch đới.
Cây ba gạc ấn độ
Resecpin ngoài tác dụng hạ huyết áp do dãn mạch, còn tác dụng lên trung khu vận mạch ở hành tủy, tác dụng trấn tĩnh và làm cho tim đập chậm do kích thích vagus.
Cây dừa cạn
Theo kình nghiệm sử dụng trong y học dân tộc của một số nước khác có cây này mọc hoang dại, rễ dừa cạn có tác dụng tẩy giun, chữa sốt.
Cây ba kích
Trong rễ ba kích chủ yếu có chất anthraglucozit, rất ít tinh dầu, chất đường, nhựa và axít hữu cơ. Rễ tươi có vitamin C. Theo các tài liệu cũ, chỉ có vìtamin C.
Cây hoa hòe
Hiện nay nhân dân dùng hoa hòe làm thuốc cầm máu, dùng trong những bệnh ho ra máu, đổ máu cam, tiểu tiện ra huyết, ruột chảy máu. Ngày uống 5 đến 20g.
Cây đỗ trọng
Đỗ trọng vị ngọt hơi cay, tính ồn, vào hai kinh can và thận. Có tác dụng bổ can, thận, mạnh gân cốt, an thai, dùng chữa đau lưng, đi tiểu nhiều, chân gối yếu mềm.
Cây nhàu
Vỏ rễ cây nhàu chứa glucozit anthraquinon gọi là morindin có tình thể hình kim màu vàng, tan trong nước sôi, ít tan trong nước lạnh, không tan trong ête.
Cây mạch ba góc
Hiện nay nhân dân ta tại một số vùng chỉ mới trồng cây mạch ba góc để làm thức ăn cho gia súc và ngưòi. Một số nơi dùng lá nấu canh ăn cho sáng mắt, thính tai.
Cây hoàng cầm
Hoàng cầm sấy khô tán nhỏ làm thành viên to bằng hạt ngô. Ngày dùng 20-30 viên. Chữa các bệnh đổ máu cam, thổ huyết, kinh nguyệt quá nhiều, cảm mạo, ho cảm.