- Trang chủ
- Dược lý
- Cây thuốc và vị thuốc chữa bệnh giun sán
- Cây chân bầu
Cây chân bầu
Nhân dân miền Nam và Campuchia thường dùng quả làm thuốc chữa giun đũa, dùng phối hợp với lá mơ tam thể Paederia tomentosa. Thái nhỏ hai thứ trộn đều thêm bột.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Còn có lên là cây chưng bầu, song ke (tên Campuchia).
Tên khoa học Combretum quadrangulare Kurz (Combretum attenuatum Wall).
Thuộc họ Bàng Combretaceae.
Người ta dùng quả và vỏ cây Chân bầu.
Mô tả cây
Cây chân bầu
Cây nhố cao từ 2 đến 12m. Khi còn non có cành hình 4 cạnh, 4 mép có dìa như cánh. Lá thường mọc đối, hình trứng dài, đầu lá tròn hay hơi rộng ra, cả hai mặt nhất là mặt dưới đều có lông. Chiều dài của lá 3-7,5cm, rộng 1,5-4cm. Hoa nhỏ mọc thành bông ở kẽ lá và đầu cành. Quả dài 18~20mm, rộng 7-8mm có 4 cánh mỏng. Hạt hình thoi rộng 4mm, có dìa.
Phân bố
Cây chân bầu được trồng ở miền nam Trung Bộ và miền Nam Việt Nam. Có cả ở Campuchia, Lào, Miến điện và Thái Lan. Thường người ta trồng để nuôi con kiến cánh đỏ, vì trên cây này, con cánh kiến cho nhiều cánh kiến. Chưa thấy ở miền Bắc. Đang thử trồng, cây mọc tốt nhưng chưa thấy ra quả.
Thành phần hóa học và tác dụng dược lý
Nguyễn Bá Tước (trong bản luận án thi bác sĩ dược khoa “Nghiên cứu thực vật, hóa học và dược lý về một số vị thuốc giun ở Đông Dương”- Paris, 1953) có nghiên cứu vi phẫu, thành phần hóa học và dược lý của vị chân bầu.
Nhưng chưa thấy rõ hoạt chất là gì. Chỉ thấy trong nước pha hoặc cao cồn hay cao axeton có chất tanin.
Thí nghiệm dược lý trên chuột thấy có tác dụng chữa giun rõ rệt.
Công dụng và liều dùng
Nhân dân miền Nam và Campuchia thường dùng quả làm thuốc chữa giun đũa, dùng phối hợp với lá mơ tam thể Paederia tomentosa. Thái nhỏ hai thứ trộn đều thêm bột và nước làm bánh ăn vào sáng sớm lúc đói.
Có khi người ta dùng chất nhớt ở vỏ những cành non để làm thuốc giun như trên.
Ngoài công dụng làm thuốc giun, người ta còn dùng vỏ cây chân bầu chữa trâu bò ngựa gầy gò. Nấu 5kg thóc với 500g vỏ cây chân bầu. Sau đó cho trâu bò ngựa uống nước sắc hoặc thóc ngâm cây dây ký ninh Tinospora crispa.
Bài viết cùng chuyên mục
Cây mắc nưa
Mắc nưa cũng như cây mun chủ yếu được trồng để lấy gỗ, và lấy quả làm thuốc nhuộm màu đen, quả có thể dùng tươi hay khô, nhưng chủ yếu là tươi.
Cây thạch lựu
Dù với liều điều trị khi dùng thuốc, bệnh nhân cần phải nằm yên trong phòng tối để tránh mọi ảnh hưởng không tốt của thuốc. Thường phối hợp với tanín.
Hạt bí ngô
Bóc hết vỏ cứng của hạt bí ngô, để nguyên màng xanh ở trong. Người lớn dùng 100g nhân, giã nhỏ trong cối, có thể dùng 50-60ml nước để tráng sạch cối.
Cây keo dậu
Cây keo dậu mọc hoang và được trồng khắp nơi trong Việt Nam để làm hàng rào, làm phân xanh bóng mát. Trâu bò rất thích ăn lá cây này. Khi quả chín lấy về.
Sử quân tử
Cây sử quân mọc hoang ở hầu hết các tỉnh miền Bắc và miềm Trung Việt Nam. Tại các tỉnh, nhất là thành phố, một số gia đình trồng làm cảnh vì cây xanh tốt quanh năm.
Cây bách bộ
Nghiên cứu tác dụng dược lý, người ta đã chứng minh kinh nghiệm của ông cha ta dùng bách bộ để chữa ho, chữa giun và diệt sâu bọ là đúng.
Cây dầu giun
Cây mọc dại từ đầu mùa xuân đến giữa mùa hè thì ra hoa kết quả. Đến tháng 8 tháng 9, quả chín hạt rụng xuống đắt. Rồi cây bị đất phù sa tràn ngập, thối chết.
Cây quán chúng
Quán chúng là một vị thuốc tương đối hay dùng trong đông y, tuy nhiên nguồn gốc rất phức tạp và chưa thống nhất, trước dây căn cứ vào các tài liệu của Trung Quốc.
Cây thùn mũn
Cây mọc hoang ở các đồi thành từng bụi cao chừng 1-2m. Thân màu tía tím thỉnh thoảng có cành đỏ tươi hơn, trông như hơi mốc. Có vạch dọc rất rõ.
Cây rùm nao
Các hạch và lông hứng được là một thứ bột mịn, màu đỏ tươi hay đỏ nâu, không mùi, không vị, đốt cháy rất mau, nổi lên mặt nước, nước có màu vàng sau đó bột chìm xuống.
Cây cau
Dung dịch hạt cau có tác dụng độc đối với thần kinh của sán, làm cho tê bại các cơ trơn của sán, 20 phút sau khi thuốc vào tới một, con sán bị tê liệt.
Cây xoan
Xoan là một cây to cao, có thể đạt tới 25-30m nhưng thòng thường chỉ thấy 10-15m là người đã khai thác, vỏ thân xù xì, nhiều chỗ lồi lõm, với nhiều vết khía dọc.