Cây cau
Dung dịch hạt cau có tác dụng độc đối với thần kinh của sán, làm cho tê bại các cơ trơn của sán, 20 phút sau khi thuốc vào tới một, con sán bị tê liệt.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Còn gọi là binh lang, tân lang.
Tên khoa học Areca catechu L.
Thuộc họ Cau (Palmae). Họ Cau hiện có tên khoa học là Arecaceae.
Người ta dùng hạt cau hay binh lang, tân lang (Semen Arecae) là hạt phơi khô của cây cau.
(Tân = khách, tần = chàng. Khi có khách đem trầu cau ra mời cho nên gọi là tân lang).
(Có dộc - dùng phải cẩn thận).
Mô tả cây
Cây cau
Cây cau là một cây có thân mọc thẳng cao chừng 15-20m, đường kính 10-15cm. Toàn thân không có lá mà có nhiều vết lá cũ mọc, chỉ ở ngọn có một chùm lá to rộng xẻ lông chìm. Lá có bẹ to. Mo ở bông mo sớm rụng. Trong cụm hoa hoa đực ở trên, hoa cái ở dưới. Hoa đực nhỏ màu trắng, thơm gồm 3 lá đài màu lục, 3 cánh hoa trắng, 6 nhị. Hoa cái to, bao hoa không phân hóa. Noãn sào thượng 3 ô. Quả hạch hình trứng to bằng quả trứng gà. Quả bì có sợi, hạt có nội nhũ xếp cuốn. Hạt hơi hình nón cụt, đầu tròn giữa đáy hơi lõm, màu nâu nhạt, vị chát.
Phân bố, trồng hái
Được trồng ở khắp nơi ở Việt Nam để lấy quả ăn trầu và xuất cảng.
Trồng bằng quả thường sau 5-6 năm mới thu hoạch.
Người ta phân biệt cau rừng (sơn binh lang) và cau nhà (gia binh lang). Cau rừng hạt nhỏ, nhọn và chắc hơn. Loại sơn bính lang có nhiều ở Nghệ Tĩnh và Thanh Hóa.
Trước đây (vào năm 1930) diện tích trồng cau ước lượng chừng 2500 hecta ở miền Bắc Việt Nam chủ yếu là Hải Hưng, sau đến Kiến An, Quảng Ninh và cuối cùng đến Nam Hà, Thái Bình. Tại miển trung, diện tích trồng trước đây ước chừng 1.400 hecta. Tại miền Nam Việt Nam, nhân dân cung trồng nhiều ở My Tho, Bến Tre, Rạch Giá, Cần Thơ v.v...
Thành phần hóa học
Trong hạt có tanin. Tỷ lệ tanin trong hạt non chừng 70% nhưng khi chín chỉ còn 15-20%.
Ngoài ra còn chất mỡ (14%) với thành phần chủ yếu gồm: myristin 1/5, olein 1/4, laurin 1/2, các chất đường: sacaroza, mannan, galactan 2% và muối vô cơ.
Hoạt chất chính là 4 ancaloìt: Arecolin, arecaidin, guvaxin, và guvacolin,, Arecolin (hay CH3 arecaidin) chiếm chừng 0,1- 5,0%.
Tác dụng dược lý
Tác dụng của arecolin gần giống các chất petetìerin, pilocacpin và muscarin.
Arecolin gây chảy nước bọt rất nhiều. Nó còn làm tàng bài tiết dịch vị, dịch tràng và làm co nhỏ đồng tử.
Dung dịch 1% arecolin bromhydrat làm co nhỏ đồng tử sau khi nhỏ từ 3 đến 5 phút. Sự co nhỏ đồng tử kéo dài từ nửa giờ đến 2 giờ. Có thể dùng làm giảm áp nhãn trong bệnh glocom.
Areclin còn làm tim đập chậm trừ khí có mặt của canxi, tăng nhu động ruột, liều nhỏ kích thích thần kình, liều lớn gây liệt thần kinh.
Dung dịch hạt cau có tác dụng độc đối với thần kinh của sán, làm cho tê bại các cơ trơn của sán, 20 phút sau khi thuốc vào tới một, con sán bị tê liệt và không bám vào thành một được nữa.
Công dụng và liều dùng
Hạt cau thường được dùng làm thuốc chữa giun sán cho súc vật như chó với liều 4g. Nếu dùng arecolin bromhydrat người ta dùng liều 0,5- 1mg.
Dùng chữa sán cho ngưcri: phối hợp với hạt bí ngô (xem vị hạt bí ngố).
Làm thuóc giúp sự tiêu hóa, chữa viêm ruột, lỵ. Dùng hạt cau khô, mõi ngày 0,5 đến 4g.
Chữa trẻ con chốc đầu: Mài hạt cau thành bột phơi khô hòa với dầu mà bôi. cần theo dõi vì có độc
Nhân dân còn dùng hạt cau phối hợp với thường sơn, thảo quả chữa sốt rét trong đơn thuốc “Thường sơn triệt ngược”.
Bài viết cùng chuyên mục
Cây quán chúng
Quán chúng là một vị thuốc tương đối hay dùng trong đông y, tuy nhiên nguồn gốc rất phức tạp và chưa thống nhất, trước dây căn cứ vào các tài liệu của Trung Quốc.
Cây dầu giun
Cây mọc dại từ đầu mùa xuân đến giữa mùa hè thì ra hoa kết quả. Đến tháng 8 tháng 9, quả chín hạt rụng xuống đắt. Rồi cây bị đất phù sa tràn ngập, thối chết.
Cây keo dậu
Cây keo dậu mọc hoang và được trồng khắp nơi trong Việt Nam để làm hàng rào, làm phân xanh bóng mát. Trâu bò rất thích ăn lá cây này. Khi quả chín lấy về.
Cây xoan
Xoan là một cây to cao, có thể đạt tới 25-30m nhưng thòng thường chỉ thấy 10-15m là người đã khai thác, vỏ thân xù xì, nhiều chỗ lồi lõm, với nhiều vết khía dọc.
Cây chân bầu
Nhân dân miền Nam và Campuchia thường dùng quả làm thuốc chữa giun đũa, dùng phối hợp với lá mơ tam thể Paederia tomentosa. Thái nhỏ hai thứ trộn đều thêm bột.
Cây thạch lựu
Dù với liều điều trị khi dùng thuốc, bệnh nhân cần phải nằm yên trong phòng tối để tránh mọi ảnh hưởng không tốt của thuốc. Thường phối hợp với tanín.
Hạt bí ngô
Bóc hết vỏ cứng của hạt bí ngô, để nguyên màng xanh ở trong. Người lớn dùng 100g nhân, giã nhỏ trong cối, có thể dùng 50-60ml nước để tráng sạch cối.
Cây mắc nưa
Mắc nưa cũng như cây mun chủ yếu được trồng để lấy gỗ, và lấy quả làm thuốc nhuộm màu đen, quả có thể dùng tươi hay khô, nhưng chủ yếu là tươi.
Sử quân tử
Cây sử quân mọc hoang ở hầu hết các tỉnh miền Bắc và miềm Trung Việt Nam. Tại các tỉnh, nhất là thành phố, một số gia đình trồng làm cảnh vì cây xanh tốt quanh năm.
Cây rùm nao
Các hạch và lông hứng được là một thứ bột mịn, màu đỏ tươi hay đỏ nâu, không mùi, không vị, đốt cháy rất mau, nổi lên mặt nước, nước có màu vàng sau đó bột chìm xuống.
Cây bách bộ
Nghiên cứu tác dụng dược lý, người ta đã chứng minh kinh nghiệm của ông cha ta dùng bách bộ để chữa ho, chữa giun và diệt sâu bọ là đúng.
Cây thùn mũn
Cây mọc hoang ở các đồi thành từng bụi cao chừng 1-2m. Thân màu tía tím thỉnh thoảng có cành đỏ tươi hơn, trông như hơi mốc. Có vạch dọc rất rõ.