- Trang chủ
- Dược lý
- Cây thuốc đông y: y học cổ truyền
- Nấm hương: tăng khí lực
Nấm hương: tăng khí lực
Nấm hương có vị ngọt, tính bình, không độc, có tác dụng làm tăng khí lực, không đói, cầm máu; còn có tác dụng lý khí hoá đàm, ích vị, trợ thực, kháng nham.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Nấm hương, Nấm đông cô - Lentinus elodes (Berk.) Singer, thuộc họ Nấm sò - Pleurotaceae.
Mô tả
Nấm còn non nằm trong vỏ cây, khi lớn làm nứt vỏ cây chui ra ngoài. Mũ nấm màu nâu nhạt, sau nâu thẫm hoặc màu mật. Mặt mũ có những vẩy trắng nhỏ, có khi màu nâu, đường kính mũ 4 - 10cm. Thịt nấm trắng. Cuống nấm hình trụ hoặc hơi hẹp, dài 3 - 10cm, đường kính 0,5 - 1cm, màu sắc giống như mũ; cuống thường xẻ như bị rách. Gốc của cuống phân biệt hẳn với vỏ cây.
Thường gặp tháng 11 đến tháng 2.
Bộ phận dùng
Thể quả - Lentinus
Nơi sống và thu hái
Thường mọc đơn độc trên thân các cây gỗ mục. Vào mùa lạnh, khi ở vùng rừng núi có mây mù, thường gặp loại nấm này. Chúng mọc tự nhiên ở rừng Lào Cai (Sa pa), Yên Bái, Tuyên Quang, Hoà Bình, Bắc Thái, Cao Bằng, Lạng Sơn trên những cây gỗ như Dẻ, Sồi, Côm tầng, Re đỏ, Máu chó, Đuôi chó. Đồng bào dân tộc miền núi cũng gây trồng Nấm hương trong tự nhiên, ở những khu rừng có điều kiện thoáng gió và ẩm ướt. Người ta hạ những cây gỗ lớn như Côm tầng (Elaeocarpus dubius), cây Dẻ đỏ (Quercus) Sồi bộp (Pasania), Re đỏ (Cinnamomum). Vào tháng chạp, 4 - 5 ngày trước hay sau ngày Đông chí, người ta rủ nhau lên rừng tìm những loại cây trên có đường kính khá lớn, cỡ nửa mét, dài 5m, rồi dùng rìu đốn cho cây hạ xuống, để nằm ở nơi thoáng có ánh sáng mặt trời chiếu vào. Khi hạ cây người ta giữ cẩn thận cho vỏ cây khỏi bong ra. Sau khi loại bỏ tất cả cành lá rườm rà đi, người ta lấy rìu chặt sâu xuống thân cây những rạch ngang sâu từ 6 - 10cm, rạch nọ cách rạch kia độ 50 - 100cm; mục đích của việc chia cây gỗ thành nhiều đoạn như thế là để lấy chỗ cho nhựa cây thoát ra, vì nhựa có chảy ra thì cây sẽ mau mục nát. Khi đã làm xong các công việc ấy, người ta để nguyên cây tại chỗ để cho các bào tử của Nấm hương trong rừng được gió truyền đến và bám vào vỏ cây mà mọc thành cây nấm. Nhưng muốn mau có nấm, người ta thường lấy Nấm hương đã già đem ngâm vào nước vo gạo trong một ngày đêm rồi tưới lên khúc gỗ. Lại có khi người ta lấy Nấm hương già khô, trộn với một nửa phần Gừng rồi xát vào cây gỗ. Chỉ xát ở mặt trên thôi vì chỉ ở chỗ nào có ánh sáng mặt trời chiếu tới thì nấm mới mọc. Sau một năm, nấm đã bắt đầu nẩy lên và đã có thể hái nấm được rồi, nhưng nấm còn nhỏ về ăn không ngon, phải đợi nấm hai năm thì tốt hơn. Vào các tháng chạp, giêng, hai âm lịch, khi có mưa phùn là hái được nhiều nấm nhất. Nếu trời mưa phùn thì cứ 6 - 7 (5 - 6) ngày lại lấy được một lứa nấm, nhưng nếu trời khô hanh thì phải đợi 15 - 20 (12 - 15) ngày mới được một lứa. Nấm đã mọc thì phải hái đúng lúc, nếu để quá già thì khó ăn. Một cây gỗ chặt như trên thì sẽ cho được 5 - 10 kg nấm tươi, có thể cho thu hoạch đến năm thứ 6. Sau khi hái nấm về, phải đem phơi nắng cho khô. Nếu trời râm thì đem sấy lửa hay xâu dây rồi gác lên bếp cho khô, nhưng nấm phơi nắng sẽ có màu đẹp hơn, mùi thơm hơn, còn nấm sấy lửa hay đặt gác bếp thường bị mùi hôi khói.
Thành phần hoá học
Nấm hương tươi chứa các thành phần tính theo g% là: nước 87g, protid 5,5g, lipid 0,5g, glucid 3,1g, cellulose 3g, tro 0,9g và theo mg% là: calcium 27mg, phosphor 89mg, sắt 5,2mg. Nấm hương khô có 13% nước, 36% protid, 4% lipid, 23,5% glucid, 17% cellulose, 6,5% tro, 184mg% calcium, 606mg% phosphor, 35mg% sắt, 23,4mg% vitamin PP, 0,16mg% vitamin B1, 1,59mg% vitamin B2.
Cũng có tài liệu nêu trong 100g Nấm hương có 0,9g protid, 3g glucid và các nguyên tố: calcium 28mg, phosphor 45mg, sắt 0,8mg và các vitamin như caroten 0,32mg, vitamin B1 0,04mg, B2 0,06mg, PP 0,5mg và vitamin C 8mg. Lượng nấm này cung cấp cho cơ thể 16 calo.
Tính vị, tác dụng
Nấm hương có vị ngọt, tính bình, không độc; có tác dụng làm tăng khí lực, không đói, cầm máu; còn có tác dụng lý khí hoá đàm, ích vị, trợ thực, kháng nham, giảm cholesterol, hạ huyết áp.
Công dụng
Đồng bào thường hái nấm tươi về nướng chín ăn. Nhưng thông thường dùng khô nấu canh, lẩu, xào nấu, xem như món rau khô gia vị cao cấp. Mặt khác, nó là một món ăn ngon, bổ nên rất được ưa chuộng. Cũng được dùng làm thuốc chữa bệnh chảy máu, đại tiểu tiện ra máu.
Ở Trung Quốc, Nấm hương được dùng trị tiểu tiện không thông, thuỷ thũng, ăn trúng nấm độc, vắng đầu đau đầu, đau dạ dày - ruột, chứng ung thư và dự phòng xơ gan.
Bài viết cùng chuyên mục
Ngót nghẻo: trị các bệnh về da
Nó có tính kích thích dạ dày ruột nên có thể gây nôn và xổ, nước chiết củ có tính kháng khuẩn đối với Staphylococcus aureus.
Keo cắt: cây thuốc
Được sử dụng trong Y học dân gian ở Lào, Vỏ cũng được dùng chế nước gội đầu ở Campuchia, Ở Ân độ, hoa được phụ nữ sử dụng khi có triệu chứng rối loạn.
Bông tai: tiêu viêm giảm đau
Cây có vị đắng, tính hàn, có độc, có tác dụng tiêu viêm, giảm đau, hoạt huyết, chỉ huyết, trợ tim. Rễ có tác dụng gây nôn, tẩy, dịch lá trừ giun và làm ra mồ hôi.
Giổi nhung, cây thuốc chữa đau bụng, sốt
Cây cho gỗ tốt, phẩm chất tốt, dùng đóng đồ gỗ, Hạt dùng làm thuốc như loài Giổi khác, vỏ chữa đau bụng, sốt
Nhài nhăn: trị viêm khớp xương do phong thấp
Vị hơi đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp
Mí mắt, thuốc trị táo bón
Loài của Nam Trung Quốc, Việt Nam, Inđônêxia, Philippin. Thường mọc hoang dưới tán rừng và trong các lùm cây ẩm ướt ở Cao Bằng, Lạng Sơn tới Hoà Bình, Ninh Bình
Nạp lụa, chữa đậu sởi
Cây dạng bụi cao 1m; nhánh to có vỏ màu tro. Lá có phiến to, xoan rộng dài đến 17cm, rộng 11cm, không lông, màu lục tươi hay đậm, gân gốc 5, mép có răng thấp
Kim quất, thuốc trị bệnh đường hô hấp
Quả dùng làm mứt, nấu trong xirô, ngâm rượu, lá dùng trị bệnh đường hô hấp, Ở Inđônêxia, lá dùng đắp vào cơ thể để trị ỉa chảy, đau bụng và bệnh ngoài da
Bầu nâu: chữa táo bón
Thịt quả chín thơm, ăn mát, chữa táo bón, lỵ, trị lao và bệnh về gan. Quả chưa chín hay mới chín tới, se, bổ tiêu hoá, dùng trị ỉa chảy.
Guột, cây thuốc thanh nhiệt lợi niệu
Cây của miền nhiệt đới và á nhiệt đới, thường mọc ở vùng đồi núi Bắc bộ và Trung Bộ của nước ta, Thu hái toàn cây quanh năm, rửa sạch
Bên bai: chữa huyết áp cao
Lá thuôn, thuôn ngọn giáo, nhọn mũi hay hơi có đuôi và tù ở đầu, nhọn ở gốc, bóng loáng ở mặt trên; cuống dài 1,5cm. Hoa trắng, rất thơm, thành xim ở ngọn dạng ngù.
Nghệ: hành khí phá ứ
Củ nghệ từ lâu đã được sử dụng rộng rãi trong y học cổ truyền và ẩm thực của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước châu Á.
Cói gạo: cây thuốc dùng trị phong thấp gân cốt, tê đau
Thân dùng để lấy sợi; làm giấy, dệt thảm, làm thức ăn gia súc, Toàn cây dùng trị phong thấp gân cốt, tê đau, đòn ngã tổn thương, kinh nguyệt không đều, bế kinh, sỏi niệu
Ô dược: đau bàng quang đái són đái dắt
Thường được dùng chữa Ngực bụng đầy trướng, khí nghịch suyễn cấp, bệnh sa nang, đau bàng quang, đái són, đái dắt, đau bụng kinh
Mật mông hoa, chữa thong manh, mắt đỏ đau
Bắc Thái trên các núi đá vôi. Thu hái hoa vào mùa xuân, lúc hoa chưa nở hết mang về phơi khô. Những hoa màu tro, nhiều nụ, có lông mịn, không lẫn cành lá là tốt
Bách bệnh, cây thuốc chữa huyết kém
Quả hình trứng, hơi dẹt, có rãnh giữa, khi chín màu vàng đỏ, chứa một hạt, trên mặt hạt có nhiều lông ngắn. Mùa hoa quả tháng 3 đến tháng 11
Kê cốt thảo, thuốc thanh nhiệt lợi tiểu
Thu hái toàn cây quanh năm, tách bỏ quả, rửa sạch phơi khô dùng, Vị ngọt, nhạt, tính mát; có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, giảm đau
Bứa mọi: trị ỉa chảy
Bứa mọi là một loài cây có tiềm năng kinh tế và xã hội rất lớn. Việc nghiên cứu sâu hơn về loài cây này sẽ góp phần khai thác hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.
Khoai ca, thuốc bổ
Rễ có vị đắng và gây buồn nôn, Toàn cây có vị đắng, mùi thơm yếu, có tác dụng bổ, kích thích, điều kinh, gây nôn
Đăng tiêu: cây thuốc chữa kinh nguyệt không đều
Hoa có vị ngọt, chua, tính lạnh, có tác dụng hành huyết, làm tan máu ứ, mát máu, trừ phong, điều hoà kinh nguyệt, Rễ có tác dụng hành huyết, làm tan máu ứ, tiêu viêm.
Đậu vây ốc: cây thuốc trị lỵ
Ở miền Trung Việt Nam, hạt nghiền thành bột rồi hãm lấy nước uống dùng trị lỵ và các cơn đau bụng.
Dứa gỗ: cây thuốc giải nhiệt tiêu viêm
Dứa dại có vị ngọt và nhạt, tính mát, có tác dụng làm ra mồ hôi, giải nhiệt, tiêu viêm, lợi tiểu, Ở Ân Độ, người ta còn dùng lá và tinh dầu từ lá bắc.
Bằng lăng nước: cây thuốc chữa ỉa chảy
Tất cả các bộ phận của cây, nhất là lá già và quả chín đều chứa một chất làm giảm glucoza huyết, có hoạt tính bằng 6, 7,7 đơn vị insulin.
Cỏ lá tre: cây thuốc thanh nhiệt, tiêu viêm
Cỏ lá tre có vị ngọt, nhạt, tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, trừ phiền, lợi tiểu, Là thuốc thanh lương giải nhiệt rất hay, lại còn dùng làm thuốc uống cho mau đẻ.
Guồi, cây thuốc trị lỵ và bệnh gan
Ở Campuchia, thân cây được sử dụng làm các chế phẩm thuốc trị lỵ và bệnh về gan và bệnh ghẻ cóc, Có khi người ta ngâm rượu làm thuốc cho phụ nữ