- Trang chủ
- Dược lý
- Cây thuốc và vị thuốc có chất độc
- Cúc trừ sâu
Cúc trừ sâu
Cúc trừ sâu là một cây ưa khô, chịu hạn được một thời gian dài có thể chịu mùa đông rất lạnh, nó ưa bóng vừa phái và có thể trồng xen với một số cây to nhưng nó rất sợ ẩm ướt.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Còn gọi là pyrethre - chiysantheme vermicide et insecticide.
Tên khoa học Chrysanthemum cinerariaefolium Vis. (pyrethrum cinerariaefolium Trev, Pyrethrum cinerariaefolium DC).
Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Ta dùng cụm hoa phơi hay sấy khô của cây cúc trừ sâu (Flos Pyrethrì cinerariaefoli).
Ngoài cây cúc trừ sâu Pyrethrum cinerariaefolìum Trev. Người ta còn dùng hoa của nhiều loại cúc khác như pyrethrum roseum M.B. (vùng Capcazơ), Pyrethrum carneum M.B.
Với tên Pyrèthre người ta còn dùng rễ cây Anacylus pyrethrum Cass. cùng thuộc họ cúc, tuy nhiên rẽ này không có tác dụng trừ sâu, thường chỉ được dùng chế một số loại thuốc đánh răng.
Chrysanihemum do chữ Hy Lạp Chrysos có nghĩa là màu vàng, anthemon là hoa ý nói cây có hoa màu vàng, cinerarìaefolium do chữ Hy Lạp inera là màu tro, folium là lá. Vì cây có lá màu xanh tro: Pyrethrum có nghĩa là cay.
Mô tả cây
Cúc trừ sâu
Cúc trừ sâu là một loại cỏ sống dai, cao 50-60cm, toàn thân cành và lá được phủ lóng mềm trông như bông, mặt trên lá lông ngắn hơn ở mặt dưới làm cho toàn cây trông như có mốc trắng gần như cây cúc mốc. Lá cây cúc trừ sâu mọc thành túm khá nhiều lá, giữa túm lá mọc lên nhiều cành mang hoa. Lá phía dưới to dài 20cm, rộng chừng 6cm, cuống dài, phía dưới rộng ra và ôm vào thân, phiến lá xẻ lông chim cất sâu, 7-9 thùy so le, hẹp về phía cuống, nở phía đỉnh, bên cạnh xẻ thùy sâu và không đều nhau, thùy phía mép giống như những răng cưa to thô. Tuy nhiên trong quá trình phát triển cành xẻ của lá có thay đổi và xẻ đều nhau hơn. Những thân mọc từ cụm lá phía gốc chỉ mang mỗi một cụm hoa hình đầu gồm 2 loại hoa: Nhũng hoa phía ngoài hình thìa lìa họng hẹp lại và kéo dài thành hình lưỡi nhỏ màu trắng, với 2 đường rãnh dọc và 3 răng tù, số hoa này không thụ và có từ 12 đến 15 hoa, những hoa phía trong hoàn toàn hình ống màu vàng, với 5 răng lớn, hoa này lưỡng tính. Quả bế với 1 tiểu noãn, đỉnh quả có một bộ phận hình cốc chứ không mang chùm lông như nhiều quả khác của họ Cúc.
Loài Pyrethrum roseum và Pyrethrum carneum dễ phân biệt với loại trên vì hoa xung quanh có màu hồng đến đỏ tươi, số hoa thìa lìa này cũng nhiều hơn, từ 20 đến 30, trên quả có 8-10 đường sống nổi lên.
Phân bố, thu hái và chế biến
Cây cúc trừ sâu Pyrethrian cinerariaefolium Trev. Mọc hoang ở những núi Anpơ (Ý) và dãy núi Bancăng (Đông Âu), những loài p. roseum và p. carneum mọc hoang ở vùng Capcazơ như Acmênia, Iran.
Về sau được nhiều nước tổ chức trồng để khai thác như Pháp, Liên Xô cũ, Mỹ, Đức. Mặc dầu chỉ mới được di thực vào Nhật từ năm 1885 với hạt mua từ Mỹ, nhưng được Nhật phát triển rất nhanh chóng. Tới năm 1939, 3/4 cúc trừ sâu dùng trên thế giới là do Nhật cung cấp. Năm 1911, Nhật chỉ sản xuất 211 tấn hoa khô, đến năm 1928 đã tới 5.230 tấn và năm 1933 tới 6.400 tấn nghĩa là tăng hơn 30 lần trong vòng 20 năm và đứng đầu thế giới về mặt sản xuất hoa cúc trừ sâu.
Cúc trừ sâu là một cây ưa khô, chịu hạn được một thời gian dài có thể chịu mùa đông rất lạnh, nó ưa bóng vừa phái và có thể trồng xen với một số cây to nhưng nó rất sợ ẩm ướt, trồng ở những nơi ẩm ướt, nước không thoát cây rất chóng chết.
Gieo hạt vào tháng 3 đầu tháng 4 hoặc vào tháng 8 ở nơi mát, tưới nhẹ, phủ đất lên chừng 1cm. Muốn cho cây khỏi mọc mau quá có thể trộn hạt với đất mịn hay cát rồi mới gieo. Vào mùa xuân (nếu hạt gieo tháng 8-9) hoặc vào tháng 8-9 (nếu hạt gieo tháng 3-4), người ta trồng chính thức trên các luống chuẩn bị ở những sườn đồi nhiều cát có sỏi, nhiều chất vôi, mỗi cây cách nhau 30-40cm (chừng 80.000-90.000 gốc một ha) hoặc thành luống cách nhau 50cm, trên mỗi luống mỗi cây cách nhau 30cm (chừng 60.000 cây một ha). Tại Nhật người ta gieo vào tháng 9-10 và trồng vào mùa xuân năm sau trên những luống cao ở ruộng khô 60-80cm, nếu ruộng vừa phải thì luống chỉ cao 50-60cm, mỗi gốc cách nhau 30-40cm, như vậy mỗi ha chừng 100.000 đến 110.000 gốc. Khi mới trồng cần tưới cho đến khi cầy bén rẻ thì thôi. Bón phân supephotphat canxi, phân người, tưới ruộng gieo hạt với dung dịch sunfat amon.
Cây trồng đến mùa thu năm sau đã ra hoa nhưng người ta thường chờ tới năm thứ 3 mới thu hái hoa. Tùy theo đãt, trồng mỗi lần có thể thu hoạch trong 10 năm, nêu đát tốt có thể thu hoạch trong 20 năm. Có tác giả lại nói là thời gian trồng cúc trừ sâu lại tỷ lệ nghịch với độ phì nhiêu của đất và hoạt chất trong cây cũng vậy.
Người ta hái hoa làm thuốc, có nơi phân biệt ra hoa chưa nở, hoa đang nở và hoa đã nở hoàn toàn và người ta cho rằng hoa chưa nở nhiều hoạt chất hơn. Thực tế những hoa đó đều tác dụng như nhau. Người ta hái hoa riêng, hay hái cả hoa và cành rồi về nhà ngắt hoa riêng, có nơi hái cả cây về để chiết hoạt chất. Nhưng chủ yếu dùng hoa.
Tại vùng Languedoc (Pháp) với số 35.000 gốc ương 1 ha, thu hoạch được chùng 300-400kg hoa khô và 1.000-1.300kg thân và lá.
Thành phần hóa học
Từ cúc trừ sâu ngưòi ta đã chiết được những chất sau đây:
Những chất trơ như sáp, paraffin, phlorogluxin, pyrethrosin (chảy ở 188-189°Q, cholin, phytosterin, một ancaloit được Marinozucco (1889) gọi là chrysanthemin có cấu tạo một betain piperidimic, tuy nhiên chất này không có tác dụng trừ sâu.
Tinh dầu (0,5% trong hoa chưa nở, ít hơn trong hoa đã nở). Theo R. Merritt và T.West (1938) thành phần tinh dầu thay đổi tùy theo cách chế và dung môi cũng như nguồn gốc hoa. Lúc đầu có một số tác giả cho tinh dầu là hoạt chất trừ sâu của cúc trừ sâu nhưng hiện nay người ta cho rằng tinh dầu không có tác dụng trừ sâu.
Hoạt chất thục sự (từ 0,3-1,6%, nhiều nhất có thể đạt 2%), gồm axit pyrethrotoxic (theo Reeb và Schlagdenhauffen, 1876), pyrethrol là một ête (theo Sato, 1905) hay pyrethrol (theo Fujitanì,1909) đừng nhầm với pyrethrol ancol của Fujitani không phải là hoạt chất; cuối cùng là pyrethrin I và pyrethrin II, xinerin I và xinerin II, pyrethrin I và pyrethrin II là những chất có chứa axit và đều là những ête muối bền vững trong môi trường kiềm ở nhiột độ thường và đặc biệt bển vững trong môi trường xà phòng kiềm, đun sôi thì bị xà phòng hóa.
Pyrethrin I là ête của pyrethrolon và axit chrysanthême monocacbonic là một chất lỏng. Độ chảy 135°C.
Pyrethrin II là ête của pyrethrolon và axit chrysanthême-dicacbonic là một chất có tinh thể. Nhưng axit này có một chức được ête hóa bởi ancol metylic; vậy trong pyrethrin II nó ở dạng ête monoetylic, còn chúc axit thứ 2 đuợc ete hóa bởi pyrethrolon. Pyrethrin II rất dễ bị phá hủy, không bền vững bằng pyrethrin I. Độ chảy 1500C.
Pyrethrolon có một nhân xyclopentan và 1 dây truyền ngang C5 vào 2 nối kép, 1 chức xeton, 1 chức ancol.
Những pyrethrin không tan trong nước, tan trong những dung môi hữu cơ dễ bị thủy phân và dễ bị oxy hóa.
Xinerin lỏng sền sệt, ête của xinerolon và axit chrysantheme monocacboxylic.
Xinerin II ête của xinerolon và axit dicacboxylic, lỏng sền sệt.
Trong 4 hoạt chất trừ sâu nói trên, thì pyrethrin I được coi là hoạt chất chủ yếu, tác dụng mạnh gấp 10 lần pyrethrin II, nhưng hàm luợng lại ít, tỷ lệ 2 hoạt chất đó là 2: 3.
Tác dụng của xinerin I gần như pyrethrin I và tác dụng của xinerin II gần như pyrethrin II.
Dược thư Liên Xô cũ quy định tỷ lệ pyrethrin I tối thiểu trong hoa phải là 0,3 đến 0,5%.
Công dụng và liều dùng
Bột cúc trừ sâu càng mới, bảo quản nơi khô, kín càng có tác dụng mạnh. Đựng trong bao tải, hộp giấy bột cúc trừ sầu chóng mất tác dụng.
Cúc trừ sâu được dùng để trừ sâu nho (Eudemis, Cõchylis), sâu rau, sâu của cầy ăn quả (Aphìs brassicae, Aphis piri, Aphis persicae). rệp {Euridema ornata, Tingis pin).
Còn dùng trừ muỗi, chấy rận, nhậy.
Thường dùng dưới dạng nhũ dịch: 1 phần bột hoa hay 2 phần bột thân và hoa hòa vào 8 phần nước xà phòng đen xấu, thêm một ít dầu vừng tác dụng mạnh hơn. Phun lên những cây bị sâu bọ phá hoại.
Có thể dùng dưới dạng hương trừ muỗi: Với tỷ lệ 20 phần bột hoa cúc trừ sâu, 30 phần bột thân và lá, 50 phần bột và nhựa làm hương. Phối hợp 0,1 đến 0,4% bột cúc trừ sâu.
Đơn giản nhất ta có thể pha 20g bột hoa cúc trừ sâu vào 3 lít nước, đun cho hơi nóng rồi phun lên nơi có sầu.
Bài viết cùng chuyên mục
Cây lá ngón
Trong cây lá ngón Bắc Mỹ, thành phần chủ yếu là chất gelmixin có độc tính rất mạnh, với liều thấp trên động vật có vú, trước khi thấy hiện tượng ức chế hô hấp.
Cây củ đậu
Cây củ đậu được trồng khắp nơi ở Việt Nam vùng đồng bằng cũng như miền núi để lấy rẽ củ ăn, hạt dùng làm thuốc, nhưng ít dùng vì có độc. Mùa thu hoạch hạt tháng 11, 12.
Cây trẩu
Trẩu là một cây to, cao có thể tới 8m hay nhiều hơn, thân nhẵn. Lá đa dạng, khi thì có thùy sâu, khi xẻ nông, khi thì nguyên và hình tim, mặt trên bóng, màu sẫm.
Cây sở
Cây dầu sở được trồng nhiều nhất ở tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ rồi đến các tỉnh khác có ít hơn như Hòa Bính, Hà Tây, vùng huyện Nho Quan thuộc Ninh Bình.
Cây hột mát
Hiện cây này không được dùng làm thuốc. Nhân dân chỉ dùng hạt tán nhỏ, cho xuống nước để duốc cá. Có thể nghiên cứu để làm thuóc trừ sâu bọ hại hoa màu.
Cây thuốc lá
Hoa nhiều, tập hợp thành chùy ở ngọn. Đài có lông, tràng màu trắng hay hồng hoặc tím nhạt. Quả nang có 2 ô, có đài tồn tại bọc ở ngoài, hạt bé, nhiều, màu đen.
Cây sui
Cây sui là một loại cây lớn, có thể cao tới 30m, có gốc rất lớn. Lá nhị lộ, có cuống dài 8-10m, phiến lá dài chừng 6cm, rộng khoảng 5,5cm. Cả hai mặt lá đều hơi nháp.
Cây thàn mát
Trong nhân dân chỉ mới thấy dùng hạt thân mát để đuốc cá. Tán nhỏ, trộn với tro bếp, rắc vào dòng nước suối đã ngân lại, cá sẽ chết, nổi lên chỉ việc vớt về.
Cây hồi núi
Hiện nay không thấy nhân dân ta sử dụng cây hồi núi, thường chỉ do dùng nhầm gây ra những vụ ngộ độc vì quả có chất độc. Nêu lên ở đây để cần chú ý tránh nhầm lẫn.
Cây ngọt nghẹo
Cây ngọt nghẹo là một loại cây sống lâu do thân rễ gồm một chuỗi củ mẫm, hình cung, từ những nơi nhô lên mọc các thân cao tới 3 - 6m, nhẵn mềm, phía đỉnh có cạnh.
Cây cổ giải
Cổ giải là một loại cây sống ở nhừng núi đá vôi tại các tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hà Giang, Tuyên Quang. Có thấy mọc cả ở núi đất.
Cây mắc kẹn
Cây nhỏ cao 3 - 5cm. Lá kép chân vịt, có cuống chung dài tới 25cm, lá chét hình mác thuôn, dài 20cm, rộng 6cm, dai, nhẵn, mép có răng cưa nhỏ. Hoa trắng.
Cây lim
Lim là một cây mọc phổ biến ở Việt Nam nhất là tại những khu rừng miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Còn thấy ở Lào, miền nam Trung Quốc.
Hương bài
Chưa thấy nhân dân ta dùng cây hương bài làm thuốc. Chỉ mới thấy dùng rẽ phơi khô trộn với nhiều vị thơm khác như hồi, quế chi và bã mía để làm hương thắp.
Cây hương lâu
Cây mọc hoang dại trên các đồi hoang khô nơi nhiều nắng, trơ đất đá, xen lẫn cây bụi thấp. Được trồng để khai thác tại nhiều nước như Ấn Độ, Inđônêxya.
Cây chẹo
Chẹo là một cây nhỡ cao chừng 8m cành, và cuống lá thường mền yếu, lá kép lông chim nhẵn thường gồm 2 đến 5 đôi lá chét hình trứng dài, dai, có cuống.
Cây tỏi độc
Lá cây tỏi độc to, dài, đầu lá hẹp nhọn, khi quả chín thì lá héo đi và trên mặt đất hầu như không còn dấu vết gì của cây nữa cho đến khi mùa thu tới lại thấy hoa từ dưới đất.