- Trang chủ
- Dược lý
- Cây thuốc và vị thuốc chữa bệnh lỵ
- Cây thổ hoàng liên
Cây thổ hoàng liên
Mô vỏ phần ngoài gồm những tế bào nhiều cạnh, hoặc hình chữ nhật, kéo dài đường tiếp tuyến, những tế bào phía trong nhiều cạnh, to nhỏ không đều, xếp lung tung.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Tên khoa học Thalictrum foliolosum D.C. Thuộc họ Mao lương Ranunculaceae.
Thổ hoàng liên (Rhizoma Thalictri) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây thổ hoàng liên và nhiều loài khác thuộc giống Thalictrum.
Mô tả cây
Cây thổ hoàng liên
Thổ hoàng liên là một loại cây nhỏ, cao 40- 50cm, thân mỏng, mềm nhẵm. Lá kép 3 lần lông chim có bẹ, cuống lá chính dài 10-15cm, cuống lá bậc 2 dài 5-7cm, cuống bậc 3 dài 1- 3cm. Lá chét hình tròn hay bầu dục, mép khía tai bèo, phiến lá dài, lá màu xanh lục, mặt dưới nhạt hơn. Hoa nhỏ, cánh mỏng hơi phớt tím. Quả nhỏ, hình hạt thóc, đầu hơi có mỏ. Thân rễ to, thô đường kính 0,3-0,5cm có nhiều mấu, mấu cách nhau chừng 0,5 -1cm, bẻ ngang thấy rất nhiều xơ, thịt màu vàng tươi, vàng trắng.
Phân bố, thu hái, chế biến
Mới phát hiện mọc nhiều ở vùng Tây Bắc nhiều nhất ở vùng Tủa Chùa. Đã đem trồng thí nghiệm tại vườn thuốc Sapa (Lào Cai) và Tầm Đảo (Vĩnh Phúc). Cây mọc tốt, ra hoa kết quả, rất dễ phát triển. Tuy nhiên cho đến năm 1967 chưa được đạt thành vấn đề trồng trên quy mô lớn. Chúng tôi cũng đã thí nghiệm trồng ở đồng bằng, nhưng sang mùa nóng cây khô héo và chết.
Thu hoạch tốt nhất vào thu đông, nhưng vì mùa này cây lụi đi khó tìm, khí hậu lại rét quá, ít ai đi tìm đào, cho nên thường khai thác vào các tháng 6, 7,8. Hái về rửa sạch đất cát, cắt bỏ rễ nhỏ, phơi hay sấy khô. Không phải chế biến gì đặc biệt. Ta nên nghiên cứu trồng phát triển tại những vùng có khí hậu mát ở Việt Nam.
Mô tả vị thuốc
Vị thuốc tiêu thụ trên thị trường ở Việt Nam là những mẩu thân rễ cất thành từng đoạn ngấn, 2-4cm, đường kính 0,2-0,5cm. Mặt ngoài màu nâu sẫm, còn mang những đoạn thân ngắn, rỗng, đường kính 0,3-0,5cm. Trên có những rễ nhỏ màu vàng trắng dài hay sẹo của rễ nhỏ. Thân rễ rắn cứng, mặt bẻ gẫy không phảng, màu vàng tươi. Vị rất đắng.
Trên vi phẫu từ ngoài vào trong ta thấy:
Mộc thiêm gồm nhiêu lớp tế bào hình chữ nhật;
Mô vỏ phần ngoài gồm những tế bào nhiều cạnh, hoặc hình chữ nhật, kéo dài đường tiếp tuyến, những tế bào phía trong nhiều cạnh, to nhỏ không đều, xếp lung tung. Sát với libe là những đám cương mô.
Bó libe gỗ xếp rải rác thành từng đám trong mô ruột. Giữa bó libe gỗ là tia ruột khá rộng với những khuyến hình bầu dục, trông phảng phất như những ống bài tiết.
Trong mô ruột nơi gần gỗ thứ cấp có những mạch gỗ sơ cấp.
Thổ hoàng liên tán bột có màu vàng xám, tươi dưới tia ngoại tím. Soi kính hiển vi thấy có những đặc điểm: Mảnh mộc thiêm, mảnh mạch, tế bào cương mô đơn độc hoặc tập trung thành từng dám, mỗi đám gồm 2-4 tế bào, không có tinh bột.
Lấy một ít bột, đạt lên tắm kính, thêm một giọt cồn 95 độ, một giọt axit nitric 30% đậy kính mỏng, chờ 5-10 phút, nhìn qua kính hiển vi sẽ thấy tinh thể hình kim màu vàng tươi (becberin nitrat). Ta có thể lấy một ít bột, đặt trên kính và thêm 1 giọt axit clohydric, chờ 15-20 phút sẽ thấy tinh thể becberin hình kim. Lấy chừng 30mg bột, cho vào ống nghiệm, nhỏ thêm độ 3ml nước cất, lắc vài phút, lọc lấy 2ml, cho vào ống nghiệm khác, thêm 1ml axit sunfuaric đặc 35%, nhỏ dần dần vào ống nghiệm 1ml nước clo, nơi phân cách 2 dung dịch sẽ thấy một vòng màu đỏ.
Thành phần hóa học
Trong thổ hoàng liên có khoảng 3% becberin, 0,3% panmatin, 0,02% jatrorrhizin. Ngoài ra còn một ít thalictrin nhưng có khi không thấy chất này (C. A. 1942, 36, 5478 a và c. A. 1953, 47, 11663h).
Công dụng và liều dùng
Như vị hoàng liên. Ngày dùng từ 4 đến 6g chia làm 2 hoặc ba lần uống dưới dạng thuốc bột hay làm thành viên. Dạng thuốc sắc quá đắng khó uống. Dùng ngoài cũng để chữa đau mắt, mụn nhọt như hoàng liên bắc.Tên khoa học Cyclea bicristata Diels.
Bài viết cùng chuyên mục
Cây bàng
Do chỉ số iốt thấp và do không cho phản ứng hexabromua cho nèn người ta có thể kết luận dầu bàng không có glyxerit linoleic và thuộc loại dầu không khô.
Cây hoàng liên gai
Hoàng liên gai được dùng làm thuốc chữa đi lỵ, đau mắt, ăn uống kém tiêu. Dùng dưới dạng thuốc sắc, mỗi ngày uống 4 đến 6 gam. Có thể tán bột mà uống.
Cây đơn đỏ
Cây mọc hoang ở những vùng đồi trọc, dãi nắng. Nhiều nơi nhất là đình chùa hay trồng làm cảnh. Đừng nhầm cây mẫu đơn này hay đơn đỏ với cây mẫu đơn Paeonia suffruticosa.
Cây vọng cách
Vọng cách chỉ mới thấy được dùng trong phạm vi kinh nghiệm nhân dân. Ngoài công dụng làm thuốc, lá vọng cách được nhân dân dùng ăn gỏi cá.
Cây điều nhuộm
Bixin kết tinh trong axit axetic thành hình phiến màu đỏ tươi, tan trong các dung môi hữu cơ, trong dầu khi thêm axit sunfuric đặc sẽ chuyển thành xanh.
Cây san sư cô
Theo tài liệu cổ San sư cô có vị đắng, tính lạnh, vào 3 kinh tâm, phế và vị. Có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, chủ trị yết hầu sưng đau, ho nhiệt mất tiếng.
Mộc nhĩ
Mọc hoang trên những cây, cành gỗ mục, ở trong rừng hay ở vùng đồng bằng trên một số cây như cây sung, cây duối, cây sắn, hòe, dâu tằm. Hiện được sản xuất công nghiệp.
Cây vàng đằng
Nhân dân những vùng có cây vàng đằng mọc hoang dại thường dùng thân và rễ cây này đé nhuộm màu vàng và dùng làm thuốc như vị hoàng đằng làm thuốc chữa sốt.
Cây đơn trắng (hé mọ)
Rễ được dùng làm thuốc chữa đau răng, đau viêm tai. Còn dùng làm thuốc chữa băng huyết, đái ra máu, đắp vết thương, vết loét, chữa lỵ, rắn cắn.
Cây hoàng đằng
Mùa thu hoạch gần quanh năm. Có thể thu hoạch cả cây, cắt thành từng đoạn thân hoặc có thể chỉ lấy rễ thôi. Nhưng thường dùng cả thân và rể cắt thành từng đoạn.
Cây rau sam
Rau sam mọc hoang ở khấp những nơi ẩm ướt của Việt Nam. Còn thấy mọc ở nhiều nước khác như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Chàu Âu. Tại nhiều nước châu Âu.
Cây tỏi
Chất alixin rất dễ mất ỏxy và do đó mất tác dụng kháng sinh, vì vậy người ta cho rằng tấc dụng kháng sinh của alixin là do nguyên tử ôxy trong phân tử.
Cây seo gà
Rễ, lá sao vàng, tán nhỏ đun với dầu vừng thành thuốc dầu bôi chữa một số bệnh ngoài da của trẻ em. Ngày uống cừ 12 đến 24g rễ hoặc lá khô.
Cây sầu đâu rừng
Cây sầu đâu rừng nhỏ, chỉ cao độ 1,60 đến 2,5m là cùng, thân yếu không thành gỗ và không to như cây xoan làm nhà. Lá xè lông chim khổng đều, 4-6 đôi lá chét.
Cây phượng nhỡn thảo
Cây mọc hoang dại phổ biến ở những vùng núi cao tỉnh Lào Cai, đặc biệt quanh vùng Sapa. Còn mọc ở Trung Quốc. Người ta còn di thực cây này sang một số nước châu Âu.
Cây chè
Chè là một cây nguồn gốc Trung Quốc. Nhân dân Trung Quốc đã biết dùng chè từ 2.500 năm trước công nguyên, sau tới Nhật Bản và nhiều nước châu Á khác.
Cây hoàng đằng chân vịt
Người ta dùng thân cây và rễ cây hoàng đằng chân vịt. Thu hái gần như quanh năm. Hái về thái mỏng, phơi hoặc sấy khô. Không phải chế biến gì đặc biệt.
Cây hoàng bá
Vỏ thân thường hái vào mùa hạ, cạo sạch vỏ ngoài, chỉ còn lớp trong dày chừng 1cm, sau đó cắt thành từng miếng dài 9cm, rộng 6cm, phơi khô.
Cây mộc hoa trắng
Với liều cao, tác dụng cùa nó gần giống mocphin, nó gây liệt đối với trung tâm hô hấp. Nếu tiêm, nó gây tê tại chỗ nhưng lại kèm theo hiện tượng hoại thư.
Cây hoàng liên
Cây hoàng liên mọc hoang ở các vùng núi cao 1.500-2.000m tại Lào Cai, dãy núi Hoàng Liên Sơn, khu Tây Bắc. Tuy nhiên chưa đủ nhu cầu dùng trong nước và xuất khẩu.
Vỏ lựu
Tại Trung Quốc người ta đã dùng thử nước sắc vỏ quả lựu, điều trị so sánh với lối chữa bằng rau sam, lá chè, becbêrin v.v... đã đi tới kết luận vỏ quả lựu có tác dụng tốt.
Cây mơ tam thể
Có tác giả lấy được từ cây này hai chất aricaloit là paederin α và β, một chất tan trong ête kết tinh dưới dạng kim nhố, một chất vô định hình hơi tan trong rượu amylic.
Cây gừng dại
Cây này hầu như chưa thấy sử dụng ở miền Bắc Việt Nam, Dân tộc Bana huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định rất hay dùng thân rễ gừng dại với tên ngải, zơrong để chữa lỵ mãn.
Cây đậu rựa
Hạt đậu rựa lần đầu tiên thấy ghi trong Bản thảo cương mục làm thuốc với tên đao đậu. Bản thào cương mục thập di ghi rễ dùng làm thuốc vứi tên dao đậu căn.
Cỏ sữa nhỏ lá
Mặc dầu có những tài liệu nghiên cứu dược lý kể trên, thực tế lâm sàng không thấy có triệu chứng độc trong và sau khi uống thuốc. Thời gian điều trị thường từ 5, 7 ngày.