- Trang chủ
- Sách y học
- Bài giảng vi sinh y học
- Phòng ngừa và điều trị bệnh virus bằng liệu pháp miễn dịch đặc hiệu
Phòng ngừa và điều trị bệnh virus bằng liệu pháp miễn dịch đặc hiệu
Những biện pháp kể trên góp phần đáng kể để giải quyết bệnh virus, nhưng việc thực hiện đòi hỏi nhiều công sức và tiền của.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Nhận định chung
Các biện pháp phòng ngừa như: cải thiện vệ sinh, cải thiện nguồn nước sinh hoạt, cách ly bệnh nhân, khử trùng tiệt trùng dụng cụ và môi trường, diệt tác nhân trung gian truyền bệnh... được áp dụng thích hợp trong từng bệnh, từng vụ dịch.
Những biện pháp kể trên góp phần đáng kể để giải quyết bệnh virus, nhưng việc thực hiện đòi hỏi nhiều công sức và tiền của. Biện pháp diệt tác nhân trung gian truyền bệnh là một biện pháp phòng dịch hữu hiệu.
Liệu pháp miễn dịch nhằm làm tăng cường miễn dịch bảo vệ đặc hiệu của cơ thể đối với các thành phần của virus. Bao gồm liệu pháp miễn dịch chủ động là chủng ngừa các vaccine chống virus và liệu pháp miễn dịch thụ động là tiêm các globulin miễn dịch.
Liệu pháp miễn dịch chủ động
Các vaccine chống virus, cũng như tất cả các loại vaccine, dưạ trên sự kích thích chủ động hệ thống miễn dịch bằng cách đưa vào trong cơ thể kháng nguyên của tác nhân nhiễm trùng đã được làm mất khả năng gây bệnh cho người, làm cho cơ thể tự tạo ra tình trạng miễn dịch chống lại tác nhân gây bệnh. Tình trạng miễn dịch mà cơ thể có được sau khi sử dụng vaccine là kết quả của sự đáp ứng miễn dịch đối với các thành phần kháng nguyên có trong vaccine.
Việc sử dụng vaccine để phòng bệnh là một phương thức chủ yếu để làm giảm tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong của các nhiễm trùng virus. Các vaccine virus được sử dụng hiện nay có thể bao gồm virus sống đã được làm giảm độc lực, virus đã bị bất họat, hoặc các thành phần cấu trúc của virus. Các thành phần cấu trúc của virus có thể được chế tạo nhờ kỹ thuật tái tổ hợp ADN hoặc thu được từ virion.
Vaccine bất hoạt (còn được gọi là vaccine chết)
Loại vaccine này được sản xuất bằng cách làm bất hoạt virus bằng các tác nhân lý hóa như nhiệt, formol, beta propiolacton hoặc tia cực tím. Như vậy, loại vaccine này bao gồm các virion tinh khiết và đã bị giết chết, do đó mất khả năng gây nhiễm trùng, mất khả năng gây bệnh.
Vaccine bất hoạt gây nên sự đáp ứng miễn dịch tốt lúc tiêm đủ liều lượng, đúng thời gian. Nó có thể chủng ngừa cho những đối tượng bị suy giảm miễn dịch cũng như ở phụ nữ có thai.
Vaccine bất hoạt thường không gây được miễn dịch lâu bền so với vaccine sống giảm độc lực và thưòng phải tiêm nhiều lần để duy trì miễn dịch. Loại vaccine này hầu như chỉ kích thích cơ thể tiết ra các IgG và IgM kháng virus ở trong máu. Vì thế nó ngăn cản kém sự xâm nhập của các virus hoang dại vào trong các niêm mạc đường tiêu hóa và hô hấp, nhưng nó chống lại sự nhiễm trùng ở giai đoạn nhiễm virus máu nếu có một nhiễm trùng lan tỏa.
Các vaccine virus bất hoạt được sử dụng cho người là vaccine cúm, vaccine dại, vaccine bại liệt (vaccine Salk ), vaccine viêm não Nhật bản, v. v....
Một dạng khác của vaccine bất hoạt (Subunit (Subvirion) vaccine) chỉ bao gồm thành phần kháng nguyên quan trọng nhất về phương diện sinh miễn dịch của virion được tinh khiết và làm bất hoạt. Ví dụ loại vaccine viêm gan B được điều chế từ HBsAg có trong huyết tương những người nhiễm kháng nguyên này.
Vaccine sống giảm độc lực
Loại vaccine này chứa virus đột biến đã mất phần lớn độc lực của chúng đối với người. Virus vaccine gây ra miễn dịch nhưng không gây bệnh ở người mặc dù chúng nhân lên có giới hạn ở người được chủng vaccine.
Để sản xuất loại vaccine này cần phải sử dụng một chủng virus không có khả năng gây bệnh ( khác với chủng virus độc lực hoang dại )nhưng đồng nhất kháng nguyên hoặc gần giống với virus hoang dại gây bệnh về cấu trúc kháng nguyên.
Đặc trưng chủ yếu cúa vaccine sống giảm độc lực là tạo ra trong cơ thể một quá trình giống như quá trình nhiễm trùng tự nhiên, kích thích cơ thể đáp ứng cả miễn dịch toàn thể và miễn dịch tại chổ, cả miễn dịch dịch thể và miễn dịch tế bào. Đặc biệt là sự kích thích ngay tại đường vào của virus vaccine trong cơ thể tạo ra đáp ứng miễn dịch bảo vệ tại chổ mà chủ yếu là tiết ra IgA chống virus. Ví dụ cho trẻ em uống vaccine bại liệt sống giảm độc lực (vaccine Sabin) đã tạo ra được miễn dịch tại chổ ở niêm mạc đường tiêu hóa có tác dụng phòng ngừa sự xâm nhập sau này của virus bại liệt hoang dại vào ống tiêu hóa.
Những vaccine này còn có ưu điểm là gây được miễn dịch ở mức độ cao và tồn tại trong một thời gian dài, thường chỉ tiêm chủng một lần và có thể dùng bằng đường uống.
Tuy nhiên điều cần lưu ý đặc biệt là tính an toàn của vaccine sống phải đảm bảo không còn khả năng gây bệnh hoặc chỉ gây bệnh rất nhẹ và chủng virus vaccine phải có tính di truyền ổn định không đột biến trở lại độc lực ban đầu.
Các vaccine virus sống giảm độc lực được cho phép sử dụng ở người gồm có vaccine bại liệt (vaccine Sabin), vaccine sởi, vaccine quai bị, vaccine Rubella, vaccine thủy đậu, vaccine sốt vàng, v.v...
Vaccine tái tổ hợp
Một loại vaccine tái tổ hợp gồm các thành phần của virus được sản xuất bằng kỹ thuật tái tổ hợp ADN. Ví dụ như vaccine viêm gan B tái tổ hợp ADN được điều chế bằng công nghệ sinh học phân tử và công nghệ di truyền.
Một loại vaccine tái tổ hợp khác gồm có chủng virus vaccine đã bị biến đổi. Nghĩa là dùng kỹ thuật tái tổ hợp ADN để gắn thêm vào vật liệu di truyền của virus vaccine một gen mã hóa cho thành phần sinh miễn dịch của một virus gây bệnh nào đó. Khi virus vaccine này phát triển trong cơ thể vật chủ, sản phẩm gen” ngoại lai ” cũng được tạo thành và miễn dịch chống lại cả hai loại virus trên đã được tạo ra. Các vaccine tái tổ hợp thuộc loại này như các vaccine chống virus viêm gan B và virus gây suy giảm miễn dịch đang được kiểm định và đánh giá về hiêụ lực và sự an toàn.
Một số vaccine phòng bệnh virus đang được dùng ở Việt Nam
Vaccine phòng bệnh bại liệt
Vaccine phòng bệnh bại liệt đang được dùng ở Việt Nam thuộc loại vaccine sống giảm độc lực, dạng nước để uống, có tên vaccine Sabin gồm 3 týp virus Sabin: týp 1, týp 2, và týp 3, do Trung tâm khoa học - sản xuất vaccine Sabin của nước ta sản xuất. Vaccine Sabin tạo miễn dịch cơ bản cho trẻ dưới 1 tuổi: uống 3 liều vào các tháng 2, 3, 4 sau khi sinh. Mỗi liều 2 giọt ( tương đương 0, 1 ml ). Tạo miễn dịch bổ sung cho trẻ em từ 0 - 5 tuổi bằng cách hằng năm uống 2 liều cách nhau 1 tháng trong các chiến dịch uống vaccine phòng bại liêt.
Vaccine phòng bệnh sởi
Vaccine sởi đang dùng ở nước ta được nhập từ nước ngoài (Pháp, Canada, Nhật, Ấn độ...).Vaccine sởi là vaccine sống giảm độc lực, ở dạng đông khô. Khi dùng, vaccine đông khô được pha với nước cất để tiêm dưới da vùng cánh tay với liều 0, 5 ml cho trẻ 9 tháng đến 11 tháng tuổi.
Hiện nay ở nhiều nước như Mỹ , Bỉ, Pháp, Ấn Độ,... vaccine phòng bệnh sởi được sản xuất dưới dạng vaccine tam liên phòng 3 bệnh Sởi - Quai bị - Rubella, có biệt dược là M - M -R. Đây là vaccine sống giảm độc lực, đông khô, tiêm dưới da hoặc bắp thịt với liều 0,5ml cho trẻ em trong khoảng 12 tháng đến 15 tháng tuổi.
Vaccine phòng bệnh viêm gan B
Vaccine phòng bệnh viêm gan B đang dùng ở Việt Nam được sản xuất bởi Viện Vệ sinh Dịch tể (Hà Nội) hoặc được nhập từ nước ngoài như Bỉ, Mỹ, Hàn Quốc,... Vaccine viêm gan B hiện có 2 loại: loại thứ nhất (thế hệ 1) sản xuất từ kháng nguyên bề mặt (HBsAg) của virút viêm gan B có trong huyết tương người lành. Loại thứ 2 (thế hệ 2) sản xuất từ HBsAg được tạo ra nhờ công nghệ ADN tái tổ hợp thực hiện trên tế bào nấm men. Vaccine viêm gan B dạng nước để tiêm phòng bệnh cho các đối tượng bao gồm trẻ sơ sinh, trẻ lớn, người khỏe mạnh, người có nguy cơ cao nhiễm virus viêm gan B. Cách dùng vaccine viêm gan B theo chỉ dẫn của nhà sản xuất vaccine ở mỗi nước.
Vaccine phòng bệnh viêm não Nhật Bản
Vaccine phòng bệnh viêm não Nhật bản được sản xuất bởi Viện Vệ sinh Dịch tể (Hà Nội) hoặc được nhập từ nước ngoài (Nhật bản, Hàn quốc,...). Đây là loại vaccine virus bất hoạt, dạng nước, tiêm dưới da với liều 0,5ml đối với trẻ dưới 5 tuổi, với liều 1ml đối với trẻ từ 5 tuổi trở lên. Tạo miễm dịch cơ bản bằng cách tiêm 3 liều:
+ Liều thứ nhất: vào thời điểm chọn tiêm .
+ Liều thứ hai: Sau liều thứ nhất từ 1 - 2 tuần.
+ Liều thứ ba: Sau liều thứ nhất 1 năm.
Nên tiêm trước tháng có dịch.
- Tiêm nhắc lại:
+ Mỗi năm tiêm 1 liều ở vùng có dịch viêm não lưu hành . Nên tiêm vào tháng gần trước tháng phát dịch .
+ Bốn năm tiêm một liều ở vùng không có dịch viêm não lưu hành .
Vaccine phòng bệnh dại cho người
Có 2 loại vaccine phòng bệnh dại cho người đang dùng ở nước ta:
- Vaccine dại Fuenzalida do Việt Nam sản xuất, dạng đông khô và dạng nước, tiêm trong da 6 mũi cách nhật:
Trên 15 tuổi: mỗi liều tiêm 0,2 ml.
Dưới 15 tuổi: mỗi liều tiêm 0,1ml.
Không dùng các thuốc ức chế miễn dịch như ACTH, corticoid trong thời gian 6 tháng kể từ khi tiêm vaccine phòng dại.
Vaccine dại Verorab của Pháp được sản xuất trên tế bào Vero, dạng đông khô, tiêm dưới da hoặc bắp thịt 5 liều,mỗi liều 0,5ml vào các ngày: ngày 0 (thời điểm chọn tiêm), ngày 3, ngày 7, ngày 14, ngày 30. Tùy ý tiêm nhắc lại liều 0,5ml vào ngày 90.
Vaccine dại cần được tiêm sớm cho nạn nhân bị chó (hoặc mèo) cắn, sau khi đã xử lý tại chổ vết cắn .
Các vaccine thường được sử dụng để phòng bệnh nhưng có thể tiêm vaccine trong thời kỳ ủ bệnh để điều trị bệnh virus. Đối với những bệnh có thời kỳ ủ bệnh dài như bệnh dại thì việc tiêm vaccine tỏ ra hữu hiệu nếu thực hiện ngay khi mới bị nhiễm virus.
Liệu pháp miễn dịch thụ động
Thường sử dụng globulin miễn dịch được bào chế từ huyết thanh người và được chia ra làm 2 loại:
Globulin miễn dịch bình thường hay còn được gọi là globulin miễn dịch huyết thanh người được bào chế từ huyết thanh của tất cả những người khỏe mạnh, không có sự chọn lọc, do đó nó chứa các kháng thể chống lại những virus phổ biến trong cộng đồng. Trên thực tế loại huyết thanh này có hiệu quả trong việc phòng ngừa bệnh sởi và viêm gan A.
Globulin miễn dịch đặc hiệu được điều chế từ huyết thanh của những người đang ở thời kỳ hồi phục sau khi mắc bệnh nhiễm trùng nào đó đã khỏi , hoặc của những người mới được tiêm chủng vaccine. Nhờ có sự chọn lọc thích hợp người cho máu nên trong globulin miễn dịch đặc hiệu nồng độ kháng thể chống lại virus là căn nguyên của bệnh nhiễm trùng mà người cho đã mắc hoặc đã được tiêm chủng thường cao gấp hàng chục lần so với loại globulin miễn dịch bình thường.
Ngoài globulin miễn dịch bào chế từ huyết thanh người, còn có globulin miễn dịch bào chế từ huyết thanh động vật đã được tiêm vaccine để kích thích sản xuất kháng thể. Ngày nay việc sử dụng huyết thanh động vật giảm đi nhiều vì tỷ lệ gây ra phản ứng cao hơn hẳn so với kháng thể được sản xuất từ huyết thanh người.
Các kháng thể kết hợp với các protein virus nằm ở bề mặt bên ngoài của virion có thể ngăn cản sự hấp phụ của virion vào các thụ thể (receptor) đặc hiệu với virus ở trên bề mặt tế bào.
Có những bằng chứng cụ thể cho thấy khi tiêm globulin miễn dịch sớm trong thời kỳ ủ bệnh có thể ngăn chặn hoặc làm giảm sự trầm trọng của nhiều bệnh virus như: sởi, thủy đậu, viêm gan virus, dại, đậu mùa, đậu vaccine. Cần sử dụng lượng globulin miễn dịch đầy đủ và tiêm sớm trước giai đoạn nhiễm virus máu. Kháng thể sẽ phát huy hiệu lực ngay sau khi được tiêm vào cơ thể , nhưng chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn không quá 3 tuần lễ.
Bài viết cùng chuyên mục
Virus bại liệt Poliovirus
Enterovirus thuộc họ Picornaviridae, họ này gồm 2 giống: Enterovirus và Rhinovirus. Đặc điểm chung là nhỏ, chứa ARN 1 sợi, capsid đối xứng hình khối, không có vỏ bọc.
Vi khuẩn đường ruột
Các vi khuẩn thuộc họ Enterobacteriaceae là những trực khuẩn gram âm không sinh nha bào. Một số giống vi khuẩn thường không di động.
Virus HIV AIDS (human immunodeficiency viruses)
Virus HIV (gồm HIV1 và HIV2) thuộc vào họ Retroviridae, giống Lentivirus. Những virus này có dạng hình cầu, có vỏ, kích thước hạt virus 80-100nm về đường kính, genom chứa ARN chuỗi đơn.
Xoắn khuẩn giang mai (treponema pallidium)
Các xoắn khuẩn có dạng hình xoắn, có khả năng di động, các xoắn khuẩn có nhiều nơi trong tự nhiên, nhiều loại ký sinh trên cơ thể người và động vật. Một số xoắn khuẩn gây bệnh cho người.
Phòng ngừa và điều trị bệnh virus bằng liệu pháp hóa học
Khác với vi khuẩn, các virus ký sinh bắt buộc bên trong tế bào sống, chúng không có chuyển hóa và sự sao chép của virus hoàn toàn nằm trong tế bào chủ.
Adenovirus gây bệnh đường hô hấp
Adenovirus là những virus chứa DNA hai sợi, kích thước virus từ 70 đến 80 nm đường kính, không có vỏ bọc, capsid có đối xứng hình khối và virus có hình đa giác đều tạo nên bởi 252 capsome.
Phế cầu khuẩn gây bệnh (streptococcus pneumoniae)
Cầu khuẩn gây bệnh bao gồm Tụ cầu, Liên cầu, Phế cầu và Neisseria. Đó là những vi khuẩn hình cầu và được gọi chung là cầu khuẩn sinh mủ. Trừ Neisseria, các cầu khuẩn sinh mủ đều Gram dương.
Virus thủy đậu zona (varicella zoster virus)
Virus phát triển trong các nuôi cấy tế bào như tế bào ối, tế bào xơ non, tế bào lưỡng bội. Sự nhân lên của virus tạo ra các đám tổn thương riêng rẽ lan rộng.
Legionella pneumophila trực khuẩn gây viêm phổi
Legionella pneumophila là nguyên nhân của bệnh lý viêm phổi cấp và sốt Pontiac. Vi khuẩn từ môi trường xung quanh vào người theo đường hô hấp.
Vaccine phòng chống bệnh nhiễm trùng
Sử dụng vaccine là đưa vào cơ thể kháng nguyên có nguồn gốc từ vi sinh vật gây bệnh hoặc vi sinh vật có cấu trúc kháng nguyên giống vi sinh vật gây bệnh, đã được bào chế đảm bảo độ an toàn cần thiết.
Trực khuẩn lao (mycobacterium tuberculosis)
Vi khuẩn lao phát triển chậm, thời gian gia tăng đôi là 12 - 24 giờ trong khi của E.coli là 20 phút. Những chủng độc lực tạo thành những khuẩn lạc R.
Rickettsia vi khuẩn hoại tử mạch máu
Rickettsia hình dạng thay đổi qua các giai đoạn phát triển: cầu khuẩn đứng riêng rẻ hoặc xếp từng đôi, trực khuẩn và hình sợi. Thường gặp nhất là hình trực khuẩn.
Các kháng nguyên của virus gây bệnh
Bàn chất hoá học của vỏ ngoài thường là lipoprotein, ở một số virus là glycoprotein. Trên vỏ thường chứa các kháng nguyên đặc hiệu như yếu tố gây ngưng kết hồng cầu.
Phản ứng kết hợp bổ thể của kết hợp kháng nguyên kháng thể trong chẩn đoán vi sinh
Trong hệ thống 1, kháng nguyên được cho tác dụng với kháng thể. Nếu kháng nguyên và kháng thể phản ứng đặc hiệu thì tất cả lượng bổ thể kết hợp vào phức hợp kháng nguyên kháng thể.
Mối quan hệ giữa Bacteriophage và vi khuẩn túc chủ
Mỗi vi khuẩn có thể là vật chủ của một hoặc nhiều phage. Phage được sử dụng để khảo sát sự liên hệ giữa ký sinh và vật chủ, sự nhân lên của virus, vận chuyển các yếu tố di truyền trong nghiên cứu sinh học phân tử.
Ảnh hướng của nhân tố sinh vật đến sự phát triển của vi sinh vật
Trong quá trình tồn tại của vi sinh vật nếu chúng phải sống trong điều kiện có vi sinh vật khác thì chúng có thể bị cạnh tranh sinh tồn, bị tiêu diệt hoặc song song tồn tại.
Các vi khuẩn gây bệnh hoại thư
Vi khuẩn có hình dạng trực khuẩn, không di động có vỏ khi phát triển ở trong cơ thể động vật và người, vi khuẩn sinh nha bào khi phát triển trong môi trường tự nhiên.
Huyết thanh phòng chống bệnh nhiễm trùng
Dùng huyết thanh miễn dịch là đưa vào cơ thể kháng thể có nguồn gốc từ người hay động vật, giúp cho cơ thể có ngay kháng thể đặc hiệu chống lại tác nhân gây bệnh.
Ảnh hướng của nhân tố hóa học đến sự phát triển của vi sinh vật
Chất tẩy uế là những hóa chất có khả năng giết chết các vi khuẩn gây bệnh và vi sinh vật khác, còn đối với nha bào thì tác dụng giết khuẩn một phần.
Tụ cầu khuẩn gây bệnh (staphylococci)
Tụ cầu tìm thấy khắp nơi và có thể phân lập từ không khí, bụi, thực phẩm, cơ thể người và động vật. Tụ cầu là thành viên của khuẩn chí da hoặc niêm mạc tị hầu người.
Nuôi cấy virus trong vi sinh y học
Tùy theo loài virus có thể sử dụng những động vật cảm thụ khác nhau như chuột nhắt còn bú, chuột nhắt, chuột lang, thỏ, khỉ
Vi khuẩn tả (vibrio cholerae)
Vi khuẩn tả có oxidase, lên men không sinh hơi glucose, saccharose, D-mannitol, maltose, không lên men arabinose. Phản ứng indol dương tính.
Bệnh Virus hợp bào đường hô hấp
Virus hợp bào đường hô hấp là một virus chứa ARN 1 sợi, có kích thước khoảng 65 - 300nm, nhạy cảm với ete và có một cấu trúc giống như cấu trúc của các virus á cúm và sởi.
Phản ứng miễn dịch huỳnh quang trong chẩn đoán vi sinh
Trước hết cho kháng nguyên cố định lên tiêu bản rồi cho tác dụng với huyết thanh bệnh nhân, rửa để loại bỏ kháng thể thừa sau đó nhỏ một giọt globulin người gắn Fluorescein rồi quan sát ở kính hiển vi huỳnh quang.
Các virus họ Herpesviridae
Gần đây các virus mới thuộc họ này được mô tả là Human Herpesvirus 6 gây bệnh sốt, hạch cổ lớn và phát ban ở trẻ em, Human herpesvirus 7 vai trò gây bệnh của virus này đang được khảo sát.