Hình thành nước tiểu: lọc ở cầu thận tái hấp thu ở ống thận và sự bài tiết ở ống thận

2020-09-03 02:32 PM

Khi dịch được lọc ra khỏi bao Bowman và đi qua các ống, nó được biến đổi bằng cách tái hấp thu nước và các chất hòa tan cụ thể trở lại máu hoặc bằng cách tiết các chất khác từ các mao mạch phúc mạc vào ống.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Tốc độ bài tiết các chất khác nhau qua nước tiểu đại diện cho tổng thể của ba quá trình thận, được thể hiện trong Hình 26-9: (1) lọc ở cầu thận, (2) tái hấp thu các chất từ ​​ống thận vào máu, và (3) bài tiết các chất từ ​​máu vào ống thận. Được biểu thị bằng toán học:

Tốc độ bài tiết nước tiểu = Tỷ lệ lọc - Tỷ lệ tái hấp thu + Tỷ lệ bài tiết

Sự hình thành nước tiểu bắt đầu khi một lượng lớn dịch hầu như không chứa protein được lọc từ các mao mạch cầu thận vào trong bao Bowman. Hầu hết các chất trong huyết tương, ngoại trừ protein, được lọc tự do, vì vậy nồng độ của chúng trong dịch lọc cầu thận trong nang Bowman gần giống như trong huyết tương.

Khi dịch được lọc ra khỏi bao Bowman và đi qua các ống, nó được biến đổi bằng cách tái hấp thu nước và các chất hòa tan cụ thể trở lại máu hoặc bằng cách tiết các chất khác từ các mao mạch phúc mạc vào ống.

Hình cho thấy quá trình xử lý của thận đối với bốn chất giả định. Chất được hiển thị trong bảng A được lọc tự do bởi các mao mạch cầu thận nhưng không được tái hấp thu cũng như không được tiết ra. Do đó, tốc độ bài tiết của nó bằng với tốc độ nó được lọc. Một số chất thải nhất định trong cơ thể, chẳng hạn như creatinine, được thận xử lý theo cách này, cho phép bài tiết tất cả những gì đã được lọc về cơ bản.

Quá trình cơ bản của thận quyết định thành phần của nước tiểu

Hình. Quá trình cơ bản của thận quyết định thành phần của nước tiểu. Tốc độ bài tiết qua nước tiểu của một chất bằng tốc độ chất đó được lọc trừ tốc độ tái hấp thu của chất đó cộng với tốc độ bài tiết chất đó từ máu mao mạch màng bụng vào ống thận.

Trong bảng B, chất này được lọc tự do nhưng cũng được tái hấp thu một phần từ ống thận trở lại máu.

Do đó, tốc độ bài tiết nước tiểu nhỏ hơn tốc độ lọc ở mao mạch cầu thận. Trong trường hợp này, tốc độ bài tiết được tính bằng tốc độ lọc trừ tốc độ tái hấp thu. Mô hình này là điển hình cho nhiều chất điện giải của cơ thể như ion natri và clorua.

Trong bảng C, chất được lọc tự do tại các mao mạch cầu thận nhưng không được bài tiết vào nước tiểu vì tất cả chất đã lọc được tái hấp thu từ ống trở lại máu. Mô hình này xảy ra đối với một số chất dinh dưỡng trong máu, chẳng hạn như amino axit và glucose, cho phép chúng được bảo tồn trong dịch cơ thể.

Chất trong bảng D được lọc tự do tại các mao mạch cầu thận và không được tái hấp thu, nhưng một lượng bổ sung của chất này được tiết ra từ máu mao mạch phúc mạc vào ống thận. Mô hình này thường xảy ra đối với các axit và bazơ hữu cơ, cho phép chúng nhanh chóng được đào thải khỏi máu và bài tiết một lượng lớn qua nước tiểu. Tốc độ bài tiết trong trường hợp này được tính bằng tốc độ lọc cộng với tốc độ bài tiết qua ống thận.

Đối với mỗi chất trong huyết tương, sự kết hợp cụ thể của quá trình lọc, tái hấp thu và bài tiết xảy ra.

Tốc độ bài tiết chất này qua nước tiểu phụ thuộc vào tốc độ tương đối của ba quá trình cơ bản của thận.

Thận xử lý bốn chất giả định

Hình. Thận xử lý bốn chất giả định. A, Chất được lọc tự do nhưng không được tái hấp thu. B, Chất được lọc tự do, nhưng một phần chất đã lọc được tái hấp thu trở lại trong máu. C, Chất được lọc tự do nhưng không được đào thải qua nước tiểu vì tất cả chất đã lọc được tái hấp thu từ ống thận vào máu. D, Chất được lọc tự do và không được tái hấp thu mà được tiết từ máu mao mạch màng bụng vào ống thận.

Bài viết cùng chuyên mục

Điều tiết và độ mở của đồng tử: điều hòa tự động thần kinh tự động của mắt

Hệ giao cảm phân phối cho mắt bắt nguồn từ các tế bào sừng bên giữa trước ở đốt tủy ngực đầu tiên. Từ đó, các sợi giao cảm đi đến chuỗi hạch giao cảm và đi lên hạch cổ trên, nơi chúng xi náp với các neuron sau hạch.

Đau đầu nguồn gốc trong sọ: các thể đau đầu trong sọ

Mô não hầu như hoàn toàn không nhạy cảm với đau. Thậm chi khi cắt hoặc khi kích thích điện những vùng nhạy cảm của vỏ não chỉ thỉnh thoảng gây đau.

Định nghĩa bệnh sinh

Trong điều trị học, nếu biết được nguyên nhân để điều trị là tốt nhất nhưng nếu không biết được nguyên nhân thì điều trị theo cơ chế bệnh sinh.

Định nghĩa bệnh nguyên

Về lý luận, nó thể hiện rõ lập trường duy tâm hay duy vật. Về thực hành, nó quyết định kết quả của công tác phòng bệnh và điều trị bệnh.

Hình thành nước tiểu cô đặc: ure góp phần tăng áp lực thẩm thấu vùng tủy thận

Nồng độ cao của urê trong dịch ống thận của ống góp vùng tủy trong làm cho urê khuếch tán ra khỏi ống thận đi vào dịch kẽ thận.

Chống đông: những chất dùng trong lâm sàng

Trong một số trường hợp cần kìm hãm quá trình đông máu. Có nhiều chất có tác dụng chống đông trong đó hay dùng nhất là heparin và coumarin.

Shock nhiễm trùng: do vi khuẩn gram dương hoặc âm

Shock nhiễm trùng cực kỳ quan trọng đối với bác sĩ lâm sàng vì ngoài shock tim, shock nhiễm trùng là nguyên nhân thường xuyên nhất gây tử vong do shock.

Sinh lý và hóa sinh lipid

Lipid tham gia cấu trúc cơ thể và là bản chất của một số hoạt chất sinh học quan trọng như: phospholipid tham gia cấu trúc màng tế bào và là tiền chất của prostaglandin và leucotrien.

Tăng thông khí phổi: giảm nồng độ H+ dịch ngoại bào và làm tăng pH

Nếu chuyển hóa tạo CO2 vẫn không đổi, chỉ có các yếu tố ảnh hưởng đến pCO2 trong dịch ngoại bào là tốc độ thông khí ở phổi. Thông khí phế nang càng cao, pCO2 càng thấp.

ADH: vai trò trong việc bài tiết nước qua thận

Nồng độ ADH cao không gây ra sự gia tăng lớn về thể tích dịch cơ thể hoặc áp lực động mạch, mặc dù nồng độ ADH cao có thể làm giảm nghiêm trọng nồng độ ion natri ngoại bào.

Phù ở bệnh nhân suy tim

Suy tim cấp nghiêm trọng thường gây giảm huyết áp mao mạch ngoại vi. Do đó, thử nghiệm trên động vật, cũng như thử nghiệm ở người, cho thấy suy tim cấp hầu hết không gây phù ngoại vi ngay lập tức.

Điều trị shock phản vệ và shock thần kinh: tác dụng của thuốc cường giao cảm

Thuốc cường giao cảm có tác dụng co mạch đối lập với tác dụng giãn mạch của histamine. Do đó, epinephrine, norepinephrine, hoặc các loại thuốc cường giao cảm khác thường là cứu cánh.

Nồng độ kali: điều chỉnh nồng độ trong dịch ngoại bào và bài tiết

Duy trì sự cân bằng giữa lượng kali ăn vào và ra phụ thuộc chủ yếu vào sự bài tiết qua thận vì lượng bài tiết qua phân chỉ chiếm khoảng 5 đến 10 phần trăm lượng kali ăn vào.

Vận chuyển nước tiểu từ thận qua niệu quản vào bàng quang

Thành bàng quang có xu hướng nén niệu quản, do đó ngăn chặn dòng chảy ngược (trào ngược) nước tiểu từ bàng quang khi áp lực tích tụ trong bàng quang trong quá trình co bóp hoặc chèn ép bàng quang.

Bệnh tim: tăng khối lượng máu và khối lượng dịch ngoại bào

Nếu suy tim không quá nặng, sự gia tăng thể tích máu thường có thể đưa cung lượng tim trở lại và áp lực động mạch hầu như trở về bình thường và bài tiết natri cuối cùng sẽ tăng trở lại bình thường.

Viêm nhiễm: sự đáp ứng của đại thực bào và bạch cầu hạt trung tính

Đại thực bào có thể thực bào nhiều vi khuẩn hơn (khoảng gấp 5 lần) và các phần tử lớn hơn, bao gồm cả bạch cầu hạt trung tính. Đại thực bào cũng đóng vai trò quan trọng trong việc khởi động sản xuất kháng thể.

Quá trình bệnh lý

Thời kỳ tiệm phát có thể kéo dài mấy ngày và nếu sức đề kháng của cở thể mạnh thì bệnh cũng có thể kết thúc trong giai đoạn nầy, ta gọi là bệnh ở thể sẩy.

Cảm giác nhiệt: Receptor và sự hưng phấn của chúng

Những receptor nóng và lạnh nằm ngay dưới da ở những điểm tách biệt riêng rẽ. Hầu hết các vùng của cơ thể, các điểm lạnh gấp 3 đến 10 lần điểm nóng, và những vùng khác nhau thì có số điểm khác nhau.

Nhắc lại sinh lý sinh hóa glucose máu

Tất cả các loại glucid đều được chuyển thành đường đơn trong ống tiêu hóa và được hấp thu theo thứ tự ưu tiên như sau: galactose, glucose, fructose và pentose.

Điều chỉnh bài tiết H + ở ống thận

Những thay đổi về nồng độ K+ trong huyết tương cũng có thể ảnh hưởng đến sự tiết H+ của ông thận. Hạ kali máu kích thích và tăng kali máu ức chế H + bài tiết ở ống lượn gần.

Viêm dạ dày mãn tính có thể dẫn đến teo dạ dày và mất tuyến trong dạ dày

Việc mất khả năng tiết dịch vị trong teo niêm mạc dạ dày dẫn đến thiếu acid dịch vị, và đôi khi là thiếu máu ác tính.

Bất thường trong điều hòa thân nhiệt cơ thể người

Một số chất gây sốt, khi được tiêm vào vùng dưới đồi, có thể ngay lập tức và trực tiếp tác động trên đây làm tăng điểm nhiệt chuẩn, các chất gây sốt khác tác động gián tiếp và có thể mất vài giờ để chúng gây tác dụng.

Glucose và dung dịch khác cho mục đích dinh dưỡng

Nhiều loại dịch được dùng qua đường tĩnh mạch để cung cấp chất dinh dưỡng cho cơ thể, trpng đó phổ biến nhất là glucose, ngoài ra còn có acid amin, lipid.

Tự điều chỉnh mức lọc cầu thận và lưu lượng máu qua thận

Mức lọc cầu thận bình thường vẫn tự động điều chỉnh (có nghĩa là, nó vẫn còn tương đối không đổi) bất chấp những biến động huyết áp đáng kể xảy ra trong quá trình hoạt động bình thường của một người.

Bất thường lâm sàng của điều chỉnh thể tích dịch: hạ và tăng natri máu

Hạ Na còn có thể do cơ thể hấp thu quá nhiều nước do tiết quá nhiều ADH, một hoocmon chống bài niệu, gây tái hấp thu quá nhiều nước vào cơ thể.