- Trang chủ
- Sách y học
- Bài giảng sản phụ khoa
- Bài giảng hồi sức sơ sinh tại phòng đẻ
Bài giảng hồi sức sơ sinh tại phòng đẻ
Các cử động hô hấp xảy ra ngay sau khi sinh, hiện nay vấn đề này vẫn còn chưa được hiểu biết đầy đủ. Người ta tranh cãi về vai trò của thiếu oxy máu, về sự toan hoá máu.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Tất cả các nhà Sản khoa, nhi khoa, cũng như tất cả các nữ hộ sinh có thể thấy một thực tế là một đứa trẻ gặp khó khăn trong lúc đẻ có thể để lại những hậu quả nghiêm trọng và có thể phải trả giá bằng sự sống của nó hoặc những hậu quả về thần kinh cũng như trí tuệ của đứa trẻ.
Tất cả mọi người làm việc trong phòng đẻ đều phải biết một cách thành thạo và kỹ lưỡng tất cả các kỹ thuật và các thao tác hồi sức sơ sinh
Sự thích nghi với cuộc sống ngoài tử cung của trẻ sơ sinh
Ngay từ những giây đầu tiên ngay sau khi đẻ, có rất nhiều cơ chế sinh lý học can thiệp vào để cho trẻ sơ sinh có thể thích ứng được với cuộc sống ngoài tử cung.
Thật vậy trong tử cung thai nhi sống hoàn toàn phụ thuộc vào tuần hoàn ngoài cơ thể đó là tuần hoàn tử cung rau để đảm bảo cho lưu lượng tim, độ bão hoà oxy, cân bằng về thân nhiệt, các trao đổi nước, điện giải và các chất dinh dưỡng cần thiết của mình.
Trong một vài phút ngay sau khi đẻ đứa trẻ phải chấp nhận cuộc sống độc lập hoàn toàn về sinh lý.
Các cơ chế về sự thích nghi của trẻ sơ sinh về tim và hô hấp sẽ xảy ra sớm nhất và quan trọng nhất.
Tất cả các bất thường của hệ thống hô hấp và tuần hoàn mà không được phát hiện trước khi đẻ hoặc bất thường về sự thích nghi về hô hấp và tuần hoàn không được chăm sóc có thể là nguyên nhân của sự thiếu oxy tổ chức và sẽ có nguy cơ để lại hậu quả nặng nề do các tổn thương của não.
Thông khí
Cơ chế của sự thích nghi ở lúc sinh.
Có ba vấn đề chính phải thích nghi cho phép chuyển từ cuộc sống trong nước ở trong tử cung ra cuộc sống bình thường ngoài tử cung.
Sự khởi động của các cử động hô hấp
Nó xảy ra khoảng 20 giây sau khi sổ thai thường là sau khi sổ ra ngoài của lồng ngực.
Các cử động hô hấp xảy ra ngay sau khi sinh, hiện nay vấn đề này vẫn còn chưa được hiểu biết đầy đủ. Người ta tranh cãi về vai trò của thiếu oxy máu, về sự toan hoá máu, về sự lạnh và về sự đi ra khỏi cuộc sống trong nước.
Các động tác hô hấp đầu tiên của trẻ (biểu hiện bằng những tiếng khóc đầu tiên) tạo ra trong phổi của chúng một áp lực thay đổi từ -40 đến + 80 Cm nước.
Những tiếng khóc đầu tiên của trẻ sơ sinh
Nó tạo ra sự nở (sự giãn ra) của các phế nang phổi. Sự giãn nở này kèm theo sự đẩy khối Surfactant của phổi vào đường hô hấp. Kết quả nó tạo ra một dung tích dư chức năng vào khoảng 30ml/1kg trọng lượng trẻ sơ sinh vào cuối của ngày đầu tiên của cuộc sống.
Sự thải tiết các dịch phổi
Các dịch phổi có mặt trong đường hô hấp của thai nhi được thải tiết ra ngoài theo 2 cơ chế:
Một là sự chèn ép vào lồng ngực của đứa trẻ khi đi qua đường sinh dục của người mẹ.
Hai là sự hấp thu của chúng qua đường mạch máu và bạch huyết trong 4-6 giờ đầu sau khi sinh và cơ chế này hoạt động mạnh hơn rất nhiều cơ chế kia.
Sự đào thải dịch phổi khó khăn gặp trong trong một số trường hợp sau đây.
Trẻ bị ngạt trong lúc sinh
Trẻ mà cử động hô hấp ban đầu không đủ mạnh như trẻ non tháng, trẻ bị suy hô hấp do không có oxy hoặc sử dụng một số thuốc cho người mẹ hoặc là gây mê.
Để cải tạo tình trạng thiếu oxy tương đối cần thiết phải thông khí cho trẻ nhanh chóng bằng oxy nguyên chất.
Trong trường hợp thiếu oxy nặng và toan chuyển hoá trầm trọng cần phải thông khí một cách có hiệu quả bằng oxy nguyên chất và sử dụng các chất đệm bicacbonat.
Huyết động học ở thai nhi
Có 2 ống thông giải phẫu học giữa nửa phải và nửa trái của tuần hoàn:
Lỗ bầu dục hay còn gọi là lỗ Botal.
Ống thông động mạch.
Từ bánh rau cho đến tận tâm nhĩ phải máu giàu oxy lần lượt phải đi qua: Tĩnh mạch rốn, ống Arantius và sau cùng là tĩnh mạch chủ dưới. Ở tâm nhĩ phải máu giầu oxy được pha trộn với máu đã sử dụng của tổ chức tế bào não qua tĩnh mạch chủ trên về.
Từ tâm nhĩ phải 60% dòng máu giầu oxy đi qua lỗ bầu dục (lỗ Botal) sang tâm nhĩ trái sau đó tâm thất trái, qua quai động mạch chủ nó đi đến động mạch vành, vào thân động mạch cánh tay đầu, và vào động mạch cảnh gốc trái trước khi nó gặp động mạch chủ xuống sau khi nhận máu của ống động mạch. Mặt khác máu đã được sử dụng (chưa làm giàu oxy) đi đến từ tĩnh mạch chủ dưới về tâm nhĩ phải rồi tâm thất phải sau đó thân động mạch phổi.
Dường như toàn bộ lưu lượng máu (90%) của động mạch phổi theo ống động mạch và pha trộn với máu giàu oxy mà đang tuần hoàn ở động mạch chủ.
Cuối cùng 2 động mạch rốn mang máu đã kiệt oxy đến bánh rau nó nhận 60% lưu lượng tim thai.
Các ống thông mà nối giữa nửa phải và nửa trái của tim có áp lực như nhau, các tâm thất hoạt như nhau.
Cơ chế của sự thích nghi tuần hoàn sau khi sinh.
Sau khi sinh có hai yếu tố chủ yếu được tạo ra như sau.
Sự khởi động của hoạt động tuần hoàn động mạch phổi một yếu tố chinh, động học và thứ phát đối với sự thông khí phế nang.
Cặp dây rốn trong vòng một vài phút sau khi sổ thai nó phân chia một cách vĩnh viễn đứa trẻ với bánh rau.
Hai yếu tố này tạo ra những hậu quả phù hợp ở tim thai.
Giảm áp lực trong buồng tim phải (tâm nhĩ phải và tâm thất phải).
Tăng áp lực trong buồng tim trái (tâm nhĩ trái và tâm thất trái) và trong động mạch chủ tự tạo ra hai hệ thống một là áp lực thấp, hai là áp lực cao nó sẽ đóng một cách tự động và sinh lý sau đó là giải phẫu 2 ống thông liên hệ giữa nửa phải và nửa trái (lỗ bầu dục, ống thông động mạch) và từ bây giờ đặt hai tâm thất hoạt động không giống nhau.
Điều hoà thân nhiệt ở thai nhi
Điều hoà thân nhiệt thai nhi được làm thông qua bánh rau nó đóng vai trò là nơi trao đổi nhiệt độ.
Nhiệt độ của thai nhi cao hơn thân nhiệt của mẹ từ 0,3-0,8 độ C.
Cơ chế thích nghi thân nhiệt sau khi sinh.
Sự giảm toả nhiệt
Sự co mạch của các mạch máu của da cho phép làm giảm sự mất nhiệt do tản nhiệt và dẫn nhiệt.
Ngược lại sự mất nhiệt do sinh hơi và hô hấp đó là sự mất nhiệt bắt buộc mà trẻ sơ sinh không thể hạn chế được.
Tăng sinh nhiệt
Để sản sinh ra nhiệt, trẻ sơ sinh chỉ có duy nhất một hệ thống đó là sinh nhiệt bằng hoá học, nó không có khả năng sinh nhiệt thông qua vận cơ (như là co giãn hay là làm thể dục...) Sự sinh nhiệt hoá học được thực hiện thông qua kho dự trữ Glycogen ở gan nhưng trước hết là từ sự đốt cháy chất béo.
Nhiệt độ trung tính của trẻ đủ tháng là 320C và trẻ non tháng là 350C.
Trẻ sơ sinh đặc biệt nhạy cảm với lạnh (nhiệt độ của một trẻ sơ sinh không có quần áo ở 240C sẽ hạ xuống 0,25 độ C/ 1phút). Giảm thân nhiệt sẽ sảy ra một cách nhanh chóng và nó rất đáng lo ngại đối với đứa trẻ. Nó có thể dẫn đến giảm đường huyết, co mạch máu của phổi, giảm tổng hợp surfactant, chảy máu xung quanh hoặc là trong não thất.
Phòng ngừa
Tăng nhiệt độ trong phòng đẻ.
Đặt trẻ nằm cạnh một nguồn sinh nhiệt (bàn có ló sưởi).
Làm khô đứa trẻ một cách nhanh chóng sau khi sinh.
Đặt đứa trẻ vào chỗ có chăn để ủ ấm.
Đặt đứa trẻ lên người của mẹ nếu điều kiện cho phép.
Nguyên nhân của ngạt sơ sinh
Các nguyên nhân liên quan về phía mẹ
Mẹ bị một số bệnh nội khoa mà có ảnh hưởng đến chức năng hô hấp và tuần hoàn như bệnh tim, bệnh phổi, bệnh thiếu máu, bệnh cao huyết áp...
Mẹ bị mất máu làm giảm khối lượng tuần hoàn trong khi chuyển dạ như chảy máu do rau tiền đậo hoặc rau bong non...
Các nguyên nhân liên quan đến thai
Thai non tháng hoặc thai già tháng.
Thai bất thường.
Thai suy dinh dưỡng bào thai. Suy thai mãn.
Các nguyên nhân về phía phần phụ
Rau bám bất thường, rau xơ hoá.
Sa dây rau.
Nước ối ít.
Các nguyên nhân liên quan đên cuộc chuyển dạ
Cơn co cường tính.
Chuyển dạ kéo dài.
Sổ thai khó khăn.
Can thiệp thủ thuật lấy thai đường dưới không đúng chỉ định hoặc không đủ điều kiện.
Nhận biết ngạt sơ sinh
Đánh giá ngạt ở trẻ sơ sinh.
Các yếu tố trước khi đẻ
Tính chất của nước ối trong hay là xanh lẫn phân su: Có sự thải phân su vào trong buồng ối.
Có suy thai cấp một cách chắc chắn: Sự bất thường của nhịp tim thai.
Sử dụng một số thuốc ức chế cho người mẹ: Thuốc giảm đau, thuốc hướng thần, gây mê, thuốc chẹn Beta. Trong khoảng thời gian 4 giờ có nguy cơ suy hô hấp cho trẻ sơ sinh.
Có chảy máu trong chuyển dạ: Rau tiền đạo.
Chuyển dạ có nguy cao cho trẻ sơ sinh: Đẻ non tháng hoặc đẻ già tháng, đẻ đa thai, nhiễm trùng mẹ và thai (sốt, nước ối bẩn, vỡ ối sớm, nhiễm trùng sinh dục tiết niệu của người mẹ), đẻ khó do cơ học (bất tương xứng thai chậu, ngôi thai bất thường). Chuyển dạ kéo dài, thời gian sổ thai kéo dài, bệnh lý của dây rốn (dây rốn ngắn, vòng rau quấn cổ,sa dây rau, dây rau thắt nút, vỡ dây rốn), cách đẻ (mổ lấy thai, forceps)
Các yếu tố sau khi đẻ
Tình trạng thích nghi với cuộc sống ngoài tử cung của trẻ có thể được đánh giá trong những phút đầu bằng chỉ số Apgar.
Điểm Chỉ số |
0 |
1 |
2 |
Nhịp tim |
Không có |
< 100 nhịp/phút |
> 100 nhịp/phút |
Cử động hô háp |
Không có |
Chậm, không đều |
Tốt, khóc |
Trương lực cơ |
Không có |
Yếu, gấp nhẹ đầu chi |
Mạnh |
Phản xạ |
Không có |
Yếu |
Mạnh |
Màu sắc da |
Xanh, tái |
Thân hồng, chi tím |
Hồng hào |
Trong các yếu tố đó có 3 yếu tố chính đó là: động tác thở, tình trạng của nhịp tim thai và màu sắc da.
Chỉ số Apgar không được sử dụng để đưa ra chỉ định ở thời điểm nào thì cần thiết phải làm các động tác hồi sức hoặc để đưa ra các quyết định phù hợp trong quá trình hồi sức.
Chỉ số Apgar tuy nhiên vẫn còn là một phương tiện khách quan để đánh giá đứa trẻ ở phút thứ nhất và phút thứ 5 sau đó có thể phút thứ 10, 15 và 20 và như vậy chính nó là phương tiện hữu hiệu để đánh giá hiệu quả của hồi sức sơ sinh.
Triệu chứng lâm sàng
Hô hấp
Không có thông khí tự nhiên.
Các cử động của thông khí nhẹ, hiếm hoi và hoàn toàn không có.
Tim mạch
Tần số tim dưới 60 nhịp/phút.
Dấu hiệu tưới máu ngoại biên xấu.
Các đầu chi lạnh, tái, hoặc là tím với tình trạng lốm đốm chỗ trắng, chỗ tím.
Thời gian làm cho da hồng trở lại kéo dài trên 5-10 giây.
Ngừng tim, ngừng thở.
Thần kinh
Giảm trương lực cơ toàn thân.
Chuyển hoá
Giảm đường máu.
Điều hoà thân nhiệt
Nhanh chóng dẫn đến tình trạng hạ nhiệt độ.
Tình trạng chết lâm sàng
Đây là tình trạng nặng nề nhất, trẻ đẻ ra ngạt nặng, chỉ số Apgar dưới 3 điểm ở phút thứ nhất.
Điều trị ngạt sơ sinh hay các phương pháp hồi sức sơ sinh
Kết quả mong đợi sau khi hồi sức sơ sinh là đứa trẻ sống và thần kinh hoàn toàn bình thường
Chất lượng của sự phục hồi thần kinh của trẻ phụ thuộc vào lưu lượng máu giầu oxy đến não. Cho nên mục đích của điều trị ngạt sơ sinh có hai:
Đảm bảo thông khí phế nang hiệu quả.
Đảm bảo huyết động học hiệu quả.
Kích thích
Chỉ định
Trẻ sơ sinh đẻ ra không có dấu hiệu của ngừng tim, ngừng hô hấp, nhưng khó khăn của sự khởi động sự thông khí tự nhiên hiệu quả.
Tư thế
Trẻ nằm trong tư thế đầu thấp.
Phương pháp tiến hành
Đó là một động tác được thực hiện nhanh bằng áp lực nhanh và dứt khoát lên lưng đứa trẻ khi chúng ta lau khô trẻ bằng khăn. Cũng như một vài cái ấn nhẹ dứt khoát lên gan bàn chân của trẻ, các kích thích này không được làm chấn thương trẻ và không được kéo dài quá 15-30 giây.
Tất cả các phương pháp kích thích khác đối với đứa trẻ đều không có tác dụng thậm chí nguy hiểm cho trẻ.
Các tiêu chuẩn để đánh giá tính hiệu quả của nó
Trẻ hít vào hoặc là khởi động động tác hít vào đầu tiên với các động tác hô hấp đều đặn.
Hút đường hô hấp trên
Hút tất cả chất bài tiết cũng như chất nhày của đường hô hấp trên của trẻ đều phải được làm trước khi làm các động tác thông khí.
Chỉ định
Tất cả các trẻ sơ sinh ngay sau khi đẻ.
Tư thế
Nằm ngửa, đầu hơi nghiêng nhưng tư thế trung gian.
Phương tiện
Sonde hút 8 hoặc 10 Fr và với một áp lực khoảng 100-200 mbar.
Phương pháp
Tay trái của người làm để trên mặt của trẻ để giữ cho nó có tư thế đúng, thay phải cầm ống sonde hút hướng đầu sonde đi theo ý muốn (hoặc ngược lại với người thuận tay trái).
Đầu tiên là hút ở miệng: 3-5 lần đưa sonde vào 3-5cm tình từ môi đứa trẻ bằng sonde 8 hoặc 10 Fr đảm bảo sự giải phóng của hầu họng.
Thứ 2 là mũi: Một lần duy nhất ở mỗi một lỗ mũi, đưa sonde vào 3-5cm bằng sonde 8 hoặc 10 Fr đảm bảo giải phóng được hầu họng.
Thứ 3 là dạ dày: Một lần với sonde 8 hoặc 10 Fr đưa sâu vào bằng khoảng cách từ miệng đến rốn đảm bảo giải phóng phần thấp của họng và cũng để kiểm tra sự thông của thực quản và đồng thời để làm rỗng dạ dày. Để kiểm tra vị trí của sonde đã nằm đụng trong dạ dày hay chưa cần phải làm một test bằng bơm tiêm: nghe ở vùng thượng vị và chúng ta nhận thấy tiếng động của khí khi ta bơm vào dạ dày 3-5 ml không khí và phần khí này sẽ được hút ra sau khi hút dạ dày.
Sự hút thực quản dạ dày có thể là nguyên nhân dẫn đến nhịp tim chậm lại nếu như nó được thực hiện trước phút thứ năm của trẻ sau khi đẻ. Cần phải nghe tim thai trong khi hút và việc hút không được kéo dài quá 10 giây
Các tiêu chuẩn đánh giá tính hiệu quả
Hô hấp đều đặn không nghe thấy tiếng lọc sọc.
Trẻ trở lên hồng hào.
Hút đường hô hấp dưới
Khi đứa trẻ hít vào nước ối lẫn phân su, nó là những động tác cơ bản để tránh làm cho trẻ hít nhiều hơn nữa. Cần thiết trong cùng thời gian phải lấy đi hết phân su khỏi đường hô hấp của trẻ
Quan trọng là phải hút trước tất cả các động tác thông khí.
Chỉ định
Nước ối đặc sánh phân su hoặc tạo thành các cục nhỏ.
Tư thế
Nằm ngửa, đầu hơi nghiêng nhẹ ở tư thế trung gian.
Dụng cụ
Sonde 10 Fr.
Phương pháp
Hút bằng cách đặt sonde vào đường hô hấp của trẻ bằng cách sử dụng đèn nội khí quản, sonde được đưa vào sâu 2-3cm qua lỗ thanh quản.
Hút ở bên trong khí quản với việc đồng thời rút sonde ra ngoài. Phải hút với áp lực 200 mbar liên tục trong 3- 5 giây và nhắc đi nhắc lại động tác này nếu còn thấy chưa đảm bảo sạch.
Hút cẩn thận xung quanh vùng hầu họng, còn thanh quản được hút sau cùng.
Hút sẽ không cần thiết nếu như chúng ta thấy không có phân su xung quanh hầu cũng như thanh quản. Hút họng thanh quản trong thai nghén rất quan trọng và nó phải được làm khi mà có thể làm được.
Các tiêu chuẩn để đánh giá sự hiệu quả
Sau khi hút lần cuối cùng không còn thấy phân su ở sonde.
Trẻ tự thở được.
Thông khí
Thông khí qua mặt nạ
Chỉ định:
Ngạt.
Nhịp tim chậm dưới 100 nhịp /phút.
Ngừng tim phổi.
Tư thế:
Đầu ở tư thế trung gian.
Dụng cụ:
Bóng tự giãn với túi dự trữ oxy.
Lưu lượng oxy phải là từ 4-6l/phút.
Mặt nạ cỡ 0 đối với trẻ dưới 2000 g.
Mặt nạ cỡ 1 đối với trẻ trên 2000g.
Phương pháp:
Phương pháp miệng-miệng hoặc Miệng-Mũi miệng trong trường hợp không có dụng cụ.
Kỹ thuật thông khí bằng mặt nạ:
Áp mặt nạ sao cho nó phủ kín mũi và miệng trẻ để tránh các khe hở, cỡ của mặt nạ phải phù hợp.
Nâng hàm dưới lên trong quá trình thông khí.
Tay trái của người hồi sức phải giữ cho mặt nạ áp sát vào mặt trẻ đồng thời nâng hàm dưới lên. Ngón cái và ngón chỏ ở mỗi bên của mặt nạ. Ngón giữa giữ lấy hàm trẻ ở vị trí của cằm để áp sát mặt nạ vào mặt trẻ. Ngón đeo nhẫn và ngón út đặt ở dưới hàm để giữ cho hàm dưới được nâng lên.
Áp lực ấn bóng bằng hai ngón tay.
Tần số bóp 40-60 lần /phút.
Một số điểm đặc biệt:
4-5 lần bóp đầu tiên là rất quan trọng để đạt được một sự thông khí phế nang tốt có một hiệu quả thật sự để làm nở phổi trong những giây đầu tiên bằng cách kéo dài lần bóp đầu tiên trong 3-5 giây.
Đối với trẻ sơ sinh dưới 32 tuần hoặc trọng lượng thai dưới 1500g không nên ngần ngại sử dụng một áp lực mạnh trong 2-3 lần bóp đầu tiên
Trong trường hợp thất bại thông khí bằng mặt nạ:
Hút các chất tiết.
Đặt lại vị trí của tay người hồi sức và vị trí của mặt nạ.
Sử dụng một mặt nạ khác phù hợp hơn.
Nếu mà thông khí vẫn không có hiệu quả trong 30 giây đầu tiên thì quyết định đặt nội khí quản.
Các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả:
Sự nở ra của lồng ngực đều đặn và đồng bộ.
Nghe rì rào phế nang đều cả hai bên phổi.
Tăng nhịp tim thai.
Thai nhi trở nên hồng hào.
Ngừng thông khí qua mặt nạ khi thấy trẻ tự thở lại được một cách có hiệu quả với tần số thở từ 40-60 lần /phút, tất cả các chỉ tiêu đánh giá sự hiệu quả đều tốt.
Sự thông khí qua mặt nạ sẽ tạo ra sự căng của đường tiêu hoá do khí, nếu cần thiết cứ hơn 3 phút phải hút dạ dày một lần để làm giảm áp lực trong ổ bụng trẻ (sonde 6 Fr), cứ 2 phút một lần thì mở cho đầu tự do của sonde ra.
Thông khí qua mặt nạ được chống chỉ định trong trường hợp thoát vị cơ hoành
Đặt nội khí quản
Trong khi thao tác kỹ thuật này cần thiết phải có 3 người: một người làm, một người giữ tư thế cho trẻ và một người phụ đưa dụng cụ và hút.
Chỉ định
Thông khí bằng mặt nạ không có hiệu quả sau 30-60 giây.
Cần thiết phải kéo dài sự thông khí hỗ trợ: trẻ sơ sinh đẻ trước 28 tuần và trẻ có cân nặng dưới 1000g.
Thoát vị cơ hoành.
Tư thế
Trẻ nằm ngửa đầu trung gian, mặt trẻ song song với mặt bàn, mục đích làm cho họng hầu thanh quản và khí quản trở thành một đường thẳng, chúng ta có thể giữ cho tư thế của đầu trung gian bằng cách sử dụng một chiếc gối nhỏ ở dưới cổ (không được đặt ở dưới vai).
Dụng cụ
Ống nội khí quản phù hợp với trọng lượng của trẻ.
Đèn nội khí quản với đèn thẳng.
Băng cố định ống nội khí quản (băng dính).
Phương pháp
Tay trái người làm giữ đầu trẻ và mở miệng trẻ.
Tay phải cầm đèn nội khí quản.
Đưa đèn nội khí quản vào miệng (hơi nghiêng về bên trái) đồng thời đẩy lưỡi trẻ sang bên trái.
Bộc lộ vùng hầu họng bằng động tác kéo lên cao và ra trước theo hướng của cán đèn (không được di động đèn kiểu bập bênh).
Hút hầu họng bằng sonde số 10 Fr.
Đặt ống nội khí quản khi nhìn rõ được lỗ thanh quản.
Rút đèn nội khí quản giữ nguyên ống nội khí quản.
Nối ống nội khí quản với bóng và bắt đầu thực hiện thông khí qua ống nội khí quản.
Nghe phổi để kiểm tra vị trị của ống nội khí quản đồng thời xem sự thông khí có đều hay không. Kiểm tra vị trí của ống nội khí quản bằng cách nhìn mốc của nó có phù hợp hay không (ở mép của đứa trẻ)
Cố định ống nội khí quản
Các tiêu chuẩn để đánh giá sự hiệu quả.
Đặt nội khí quản và thông khí qua nội khí quản phù hợp thì được đánh giá thông qua các tiêu chuẩn sau đây.
Tăng nhịp tim.
Trẻ hồng hào.
Khi không thấy các dấu hiệu chứng tỏ thông khí có hiệu quả cần phải kiểm tra lại dưới đèn nội khí quản xem vị trí của ống nội khí quản có tốt hay không (nội khí quản bị tuột ra ngoài hoặc đặt vào thực quản).
Việc đặt nội khí quản tốt không thấy cải thiện về tình trạng của trẻ cần thiết phải thực hiện một số sự hỗ trợ về huyết động học.
Nguyên nhân của sự thất bại có thể là do sự bộc lộ vùng hầu họng thanh quản không tốt hoặc là không nhìn rõ lỗ thanh quản. Sau 20 giây thử đặt nội khí quản mà không được cần phải tiếp tục thông khí cho trẻ qua mặt nạ.
Vai trò của người phụ
Trước khi làm : Chuẩn bị và kiểm tra các dụng cụ.
Trong khi làm:
Giữ cố định đầu thai nhi.
Đưa dụng cụ cho người làm.
Giúp hút thanh quản.
Theo dõi nhịp tim, các động tác hô hấp và màu sắc của da trẻ.
Tính thời gian từ khi bắt đầu cho đến thời gian báo động cho người làm khi mà nó đến 20-30 giây.
Trong trường hợp thất bại thông khí cho trẻ sơ sinh qua mặt nạ và bóng để cho phép làm lại một lần nữa.
Sau khi làm:
Kiểm tra vị trí của sonde.
Ghi nhận mốc của sonde.
Cố định sonde.
Thông khí cho trẻ qua sonde.
Thở oxy qua sonde với lưu lượng tự do
Chỉ định: Những trẻ đẻ ra có nhịp tim bình thường, thông khí bình thường, không có dấu hiệu chống cự nhưng có dấu hiệu tím nhẹ ở quanh môi
Tư thế: Giống như tư thế của thông khí qua mặt nạ
Dụng cụ: Nguồn oxy (bình oxy hoặc là hệ thống oxy trung tâm) với lưu lượng 5 l/phút. Các ống dẫn oxy phải được nối qua đồng hồ đo
Phương pháp: Đưa ống dẫn oxy vào gần mũi của đứa trẻ và để cho trẻ thở tự nhiên.
Các chỉ tiêu đánh giá tính hiệu quả: Trẻ hồng trở lại và tiếp tục hồng hào sau khi đã ngừng cho thở oxy.
Cần phải tìm một cách cẩn thận dấu hiệu chống đỡ ở trẻ sơ sinh đó là: cánh mũi phập phồng, co kéo khoang liên sườn hoặc các tiếng rên, những dấu hiệu này có thể rất cần thiết giúp cho việc quyết định thông khí hỗ trợ. Nếu như sự tím tái vẫn tiếp tục kéo dài mặc dù đã được thở oxy cần phải làm rõ 2 khả năng:
Bệnh tim bẩm sinh: Nếu như vậy trẻ cần được đặt nội khí quản và cho thông khí nhân tạo
Thoát vị cơ hoành trái: Với các dấu hiệu bụng dẹt, không thấy rì rào phế nang bên trái, tiếng tim bị đẩy sang bên phải, trẻ phải được đặt nội khí quản và cho thông khí nhân tạo
Xoa bóp tim ngoài lồng ngực
Chỉ định
Tần số tim dưới 60 nhịp/phút, sau 15-30 giây làm thông khí nhân tạo một cách đầy đủ và hiệu quả.
Tư thế
Đặt trẻ nằm ngửa trên một nền cứng.
Dụng cụ
Người làm chỉ sử dụng hai bàn tay của mình
Phương pháp
Có hai kỹ thuật cho phép thực hiện việc xoa bóp tim ngoài lồng ngực ở trẻ sơ sinh. Trong cả hai kỹ thuật thì vị trí ấn là ở giữa, nằm ở 1/3 dưới của xương ức khoảng 1 cm dưới đường liên núm vú
Kỹ thuật 2 ngón tay: Người làm cắm hai ngón tay chỏ và ngón giữa của một tay thẳng góc với thành ngực của trẻ, ở 1/3 dưới của xương ức. Có thể sử dụng tay còn lại đặt ở dưới lưng của trẻ để đảm bảo điều đánh giá áp lực ấn xuống của hai ngón tay.
Kỹ thuật 2 tay: Hai tay của người làm thủ thuật ôm lấy lồng ngực của đứa trẻ ở hai bên, hai ngón tay cái gặp nhau ở 1/3 dưới của xương ức, áp lực ấn được thực hiện ở đầu của hai ngón tay cái. Ở trẻ non tháng, bàn tay của người làm lớn hơn rất nhiều lồng ngực của trẻ trong trường hợp này các ngón cái phải bắt chéo nhau ở 1/3 duới của xương ức.
Trong cả hai trường hợp áp lực ấn phải được làm đến mức mà làm cho xương ức của trẻ lõm xuống 1,5-2 cm. Tần số ấn lên xương ức phải đạt đến 120 lần/phút
Một số trường hợp đặc biệt
Sự kích thích và xoa bóp tim ngoài lồng ngực có thể được làm ngay cả ở trẻ đặt nội khí quản. Nếu trẻ được thông khí qua mặt nạ, đôi khi áp lực ấn xuống của động tác xoa bóp sẽ chống lại việc bơm khí vào của bóp bóng, trong trường hợp này cần phải xen kẽ giữa việc thông khí qua bóng và xoa bóp tim ngoài lồng ngực: 2 lần bóp bóng-8 lần ấn ngoài lồng ngực cứ thế...
Các chỉ tiêu đánh giá tính hiệu quả
Bắt được mạch đùi, động mạch rốn.
Trẻ hồng trở lại.
Thời gian hồng trở lại da của thai nhi ở trán phải dưới 5 giây.
Tính hiệu quả của xoa bóp tim ngoài lồng ngực giảm dần theo thời gian, nếu vượt quá 25 phút có tiếp tục xoa bóp tim ngoài lồng ngực cũng không làm tăng thêm cơ hội sống sót của trẻ
Sử dụng thuốc
Adrenaline
Chỉ định:
Ngừng tim mạch.
Nhịp chậm nặng nhịp tim dưới 60 nhịp/phút.
Đường sử dụng:
Đường nội khí quản là nhanh nhất, khi bơm thuốc vào nội khí quản cần thiết phải ngừng xoa bóp tim ngoài lồng ngực ít nhất là 10 giây.
Liều lượng:
100 micro gam/Kg cân nặng của trẻ hoặc là trong trường hợp bơm vào nội khí quản thì liều lượng xẽ là 1ml/Kg cân nặng với dung dịch pha loãng 1/10 000: 1 ồng adrenaline 1 ml thêm đủ thành 10 ml và như vậy 1 ml dung dich này chứa 100 micro gam.
Các tiêu chuẩn đánh giá tính hiệu quả:
Tăng nhịp tim.
Bắt được mạch.
Giảm thời gian làm hồng trở lại của da.
Trẻ hồng đều trở lại.
Nếu không thấy các dấu hiệu chứng tỏ tính hiệu quả sau 1-2 phút bơm vào nội khí quản lần đầu tiên, nó có thể được nhắc lại một lần nữa hoặc thậm chí hai lần.
Naloxone
Chỉ định:
Suy hô hấp ở trẻ sơ sinh mà người mẹ dùng morphine trước khi đẻ (trong vòng 4 giờ trước khi sổ thai)
Đường dùng:
Tiêmbắp, dưới da, qua nội khí quản.
Liều lượng:
10 microgam/kg cân nặng trẻ hoặc là 0,1ml của dung dịch sau đây: 1/2 ống 1 ml (0,2 mg) naloxone (NARCAN) thêm 1,5 ml nước muối sinh lý như vậy 0,1 ml dung dịch này chứa 10 miccrogam naloxone.
Các chỉ tiêu đánh giá tính hiệu quả:
Khởi động các động tác hô hấp của trẻ.
Chú ý:
Cần phải theo dõi sát trẻ trong những giờ tiếp sau vì thuốc này có tác dụng kéo dài trong suốt 20-30 phút.
Chu trình hoạt động của xử trí cấp cứu ngạt sơ sinh
Lau khô -- > Kích thích -- > Đặt đúng tư thế -- > Hút -- > Đánh giá: Thở, Nhịp tim, Màu sắc da.
Vô Trùng
Nguy cơ nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh là rất cao và nó còn tăng cao hơn ở trẻ non tháng. Để tránh nhiễm trùng:
Người làm hồi sức phải sạch sẽ.
Rửa tay trước khi làm thủ thuật.
Mặc quần áo, đội mũ và mang khẩu trang sạch.
Đeo găng khi làm hồi sức.
Dụng cụ phải sạch:
Rửa và tiệt trùng cẩn thận sau mỗi một lần sử dụng: bàn hồi sức, dụng cụ thông khí, ống nghe...
Các dụng cụ nhỏ phải sạch:
Các sonde hút, sonde nội khí quản sử dụng một lần..
Chăm sóc sau khi hồi sức
Các trường hợp diễn biến thuận lợi
Sự phục hồi nhanh chóng và hoàn toàn. Trẻ sơ sinh đã được đặt nội khí quản ngay từ những phút đầu sau đẻ có thể rút nội khí quản ngay ở trong phòng đẻ khi đánh giá tình trạng của trẻ sơ sinh là tốt:
Các cử động hô hấp tự nhiên và hiệu quả.
Tần số tim ổn định trên 100 nhịp/phút.
Màu sắc da bình thường sau khi ngừng thở oxy.
Rút ống nội khí quản được làm đồng thời với hút.
Một số động tác tối thiểu phải được làm ngay cả ở những trường hợp tiến triển thuận lợi nhất:
Thực hiện thăm khám lâm sàng đầu tiên và đầy đủ để tìm xem có các dị dạng hay không.
Nhỏ thuốc đau mắt để phòng nhiễm trùng của mắt.
Dùng thuốc vitamine K1: Qua đường tiêm bắp 1-2mg/kg cân nặng ngay từ những giờ đầu tiên sau khi sinh. Qua đường uống cùng với lần bú mẹ đầu tiên hoặc bú chai đầu tiên
Theo dõi những giờ sau trước hết là tần số thở, màu sắc của da, sự thức, tỉnh và các hoạt động của trẻ, đo thân nhiệt và đường máu.
Cho con nằm với mẹ và cho trẻ bú mẹ
Các trường hợp diễn biến không thuận lợi
Những trẻ phải chịu đựng một quá trình hồi sức nặng nề (tình trạng chết lâm sàng).
Những trẻ mà sự phục hồi không hoàn toàn: Sự thở khó khăn, tím tái, giảm trương lực cơ. Tất cả các trường hợp này cần phải chuyển trẻ đến một đơn vị sơ sinh đặc biệt để đánh giá và theo dõi. Cần phải tìm nguyên nhân của những khó khăn ban đầu của trẻ đặc biệt là các dị dạng của trẻ, khi mà những nguyên nhân này không được làm sáng tỏ thì cần phải tìm nguyên nhân nhiễm trùng mẹ và thai, các xét nghiệm về vi trùng học phải được làm cả về phía mẹ cũng như về phía con.
Một số trường hợp đặc biệt
Một vài bệnh lý có thể dẫn đến những khó khăn ban đầu cho trẻ sơ sinh ngay từ lúc sinh mà việc chẩn đoán chúng không được làm trong lúc có thai thì cần thiết phải làm ngay sau khi đẻ để có những chăm sóc phù hợp, đơn giản cũng có thể giúp cho trẻ phục hồi một cách tốt.
Hẹp lỗ mũi sau
Nó có thể là một bên hoặc cả hai bên.
Đôi khi là hậu quả của phù nề do chấn thương.
Chẩn đoán: Trẻ hít vào khó khăn nhưng khi khóc thì tình trạng đó được cải thiện không thể đưa sonde qua mũi để hút được. Hẹp cả hai bên sẽ dẫn đến suy hô hấp sau đẻ và sự suy hô hấp này được cải thiện nhanh chóng bằng cách đặt canul Guedel.
Hội chứng Pierre Robin
3 dấu hiệu chính
Có sự phân chia của màn hầu.
Tụt lưỡi.
Hàm nhỏ và tụt ra phía sau.
Xử trí
Đặt trẻ nằm sấp.
Đặt canul Guedel.
Theo dõi nhịp tim của trẻ.
Thoát vị cơ hoành
Nó có đặc điểm là có sự di trú của các tạng trong ổ bụng vào lồng ngực trong thời kỳ bào thai do tồn tại một lỗ thủng trên cơ hoành. Sự di trú này dẫn đến sự thiểu sản phổi hai bên và hậu quả là suy hô hấp nặng.
Tam chứng cho phép chẩn đoán
Mất rì rào phế nang của một nửa lồng ngực trái.
Tiếng tim nghe rõ ở bên phải.
Bụng phẳng.
Cần phải xử trí:
Đặt sonde hút dạ dày.
Đặt nội khí quản thông khí nhân tạo.
Đặt trẻ theo tư thế hơi đứng (đầu cao).
Chuyển trung tâm phẫu thuật nhi để điều trị phẫu thuật.
Teo thực quản bẩm sinh
Loại dị dạng này có đặc điểm là có sự thông của thực quản với khí quản, có rất nhiều thể, chẩn đoán phải được đặt ra ngay không chậm trễ, nếu không khi cho trẻ ăn thức ăn sẽ đi vào phổi.
Chẩn đoán
Đa ối trong lúc có thai.
Có hình ảnh bong bóng xà phòng ở miệng trẻ.
Thử làm test bơm tiêm âm tính (không nghe thấy tiếng động của khí di chuyển khi đặt ống nghe trên vùng thượng vị trong khi bơm không khí qua sonde dạ dầy).
Xử trí
Đặt sonde hút liên tục.
Đặt nội khí quản cho hô hấp hỗ trợ.
Đặt trẻ nằm bình thường hơi nghiêng.
Bài viết cùng chuyên mục
Bài giảng vệ sinh kinh nguyệt
Người ta thường nói, kinh nguyệt là tấm gương phản ánh sức khoẻ người phụ nữ, do đó khi có kinh nguyệt, cần phải giữ vệ sinh cần thiết để cơ thể được sạch sẽ và tránh mắc các bệnh đường sinh dục.
Bài giảng sản giật
Sau cơn co giật toàn thân, bệnh nhân thở vào được một hơi dài, tình trạng thiếu oxy tạm thời chấm dứt. Nhưng sau đó lại có những cơn kích động, nét mặt lại nhăn nhúm.
Tư vấn cho người nhiễm HIV
Nhiệm vụ chủ yếu của người tư vấn trong giai đoạn này là hỗ trợ cho người nhiễm HIV đương đầu và tiếp tục sống vối bệnh tật một cách có ích. Neu có thế.
Bài giảng HIV AIDS và thai nghén
Virus gây suy giảm miễn dịch ở người (Human Immunodeficiency Virus - HIV) gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (gọi tắt là hội chứng AIDS - Acquired Immuno Deficiency Syndrom) là một bệnh lây truyền.
Bài giảng khối u tế bào mầm
Khối u tế bào mầm chiếm tỷ lệ khoảng 15 - 20% của tất cả các loại khối u buồng trứng, là loại khối u có nguồn gốc từ tế bào mầm. Khối u tế bào mầm thường gạp ở người trẻ tuổi, thường gặp dưới 20 tuổi.
Bài giảng ngôi thóp trước trong sản khoa
Ngôi thóp trước là ngôi đầu hơi ngửa, ngôi trung gian giữa ngôi chỏm và ngôi trán. Người ta cũng coi ngôi thóp trước là một loại ngôi trán sờ thấy thóp trước, ngôi trán hơi cúi. Tiên lượng và cách xử trí gần giống ngôi trán.
Bài giảng thai già tháng
Khoảng 3- 12% thai nghén vượt quá tuần 42, nhưng thực tế thì tỷ lệ thai già tháng không vượt quá 4% (do không nhớ ngày kinh cuối cùng chính xác, hoặc thời gian phóng noãn chậm).
Bài giảng u tuyến vú và thai nghén
Nang tuyến vú là một hình thái của loạn dưỡng nang tuyến vú, là do giãn các ống sữa tạo thành, kích thước của nang có thể từ vài milimet cho tới 1 - 2cm và nhiều nang.
Sử dụng progestin trong sản phụ khoa
Đế giúp phát triển và tăng hoạt động sinh lý của tử cung cũng như của niêm mạc tử cung, người ta hay dùng các progestin tự nhiên như progesteron, hoặc gần giống tự nhiên như 17-hydroxyprogesteron.
Chăm sóc trẻ nhẹ cân non tháng
Một thế kỷ trước đây, ngay cả ở châu Âu, trẻ nhẹ cân và thiếu tháng cũng không có cơ hội để sống, cái chết của trẻ thấp cân và đẻ non luôn là nỗi đau vô hạn đối với người mẹ và gia đình.
Nhiễm khuẩn rốn trẻ sơ sinh
Bình thường sau teo thành dây chằng tròn dưới gan, khi viêm ta thây nôi ro tuần hoàn bàng hệ trên rốn, kèm theo trướng bụng, gan lách to dê đưa tới nhiễm trùng máu, viêm phúc mạc, áp xe gan
Bài giảng u xơ tử cung
Ở ngay khối u, niêm mạc tử cung và ống dẫn trứng nhất là đối với polyp thò ra ngoài cổ tử cung bị nhiễm khuẩn hoặc hoại tử: đau bụng, sốt, bạch cầu tăng, toàn thân suy sụp.
Bài giảng chửa ngoài tử cung
Siêu âm: Không thấy hình ảnh của túi ối trong buồng tử cung, cạnh tử cung có thể thấy một vùng âm vang không đồng nhất, ranh giới rõ, kích thước thường nhỏ. Trong trường hợp rỉ máu thì siêu âm có thể thấy dịch ở cùng đồ Douglas.
Bài giảng nhiễm trùng tiết niệu và thai nghén
Nhiễm trùng đường tiết niệu là bệnh lý hay gặp ở người phụ nữ, đặc biệt xảy ra tần suất cao đối với các trường hợp mang thai. Đôi lúc nhiễm trùng đường tiết niệu xảy ra âm thầm, lặng lẽ không có triệu chứng rõ ràng.
Bài giảng suy thai cấp tính trong chuyển dạ
Suy thai cấp tính là một tình trạng đe doạ sinh mạng thai, sức khoẻ thai và tương lai phát triển tinh thần, vận động của đứa trẻ sau này. Suy thai cấp tính là nguyên nhân của 1/3 số trường hợp tử vong chu sinh.
Bài giảng u xơ tử cung và thai nghén
Xoắn cuống nhân xơ: cũng có thể gặp trong những trường hợp u xơ dưới phúc mạc. Triệu chứng xoắn cuống nhân xơ giống như xoắn cuống của u nang buồng trứng.
Bài giảng triệt sản nam nữ
Phương pháp tránh thai bằng phẫu thuật có thể áp dụng cho nữ giới hoặc cho nam giới. Cho đến nay nói chung triệt sản vẫn được coi là phương pháp tránh thai vinh viễn, không hồi phục.
Bài giảng u nang buồng trứng và thai nghén
Khi bị xoắn, triệu chứng như xoắn cuống nang của khối u buồng trứng ỏ ngoài thời kỳ thai nghén, gây nên hội chứng cấp cứu bụng ngoại khoa và phải xử trí cấp cứu.
Bài giảng tính chất thai nhi và phần phụ đủ tháng
Đầu thai nhi có hai thóp là thóp trước và thóp sau. Thóp trước có hình trám, nằm phía trước. Thóp sau hình hai cạnh của tam giác, giống hình chữ lam- đa () , nằm phía sau là điểm mốc của ngôi chỏm.
Sử dụng một số hormon trong sản phụ khoa
Trong trường hợp u xơ tử cung chưa muốn chỉ định mổ vì nhu cầu sinh sản, có thể dùng teslosteron propionat 25mg tiêm bắp thịt mỗi tuần. Kinh nguyệt có thể trở lại bình thường và khả năng sinh sản vẫn được duy trì
Bài giảng thiểu ối (ít nước ối)
Nguyên nhân dẫn tới thiểu ối bao gồm ối vỡ sớm, ối vỡ non, bất thường cấu trúc thai nhi, thai quá ngày sinh, thai kém phát triển trong tử cung... Tuy nhiên, có nhiều trường hợp thiểu ối không xác định được nguyên nhân.
Bài giảng sẩy thai
Gọi là sẩy thai khi thai bị tống xuất ra khỏi buồng tử cung, chấm dứt thai kỳ trước tuổi thai có thể sống được một cách độc lập bên ngoài tử cung (ngay cả khi có sự can thiệp của y tế).
Bài giảng chăm sóc trẻ sơ sinh
Đội ngũ nhân viên tham gia chăm sóc- hồi sức trẻ sơ sinh phải có mặt ở phòng sinh trước khi thai sổ, kiểm tra lại các trang thiết bị, dụng cụ để tiếp nhận trẻ sơ sinh và có thể hồi sức ngay khi cần.
Bài giảng sinh lý kinh nguyệt
Trong những vòng kinh không phóng noãn, niêm mạc tử cung chỉ chịu tác dụng của estrogen, sẽ không có các xoang nối tiếp động tĩnh mạch mà chỉ vỡ các tiểu động mạch xoắn ốc.
Bài giảng nôn do thai nghén
Nguyên nhân gây nôn chưa rõ, nhưng người ta tin rằng nó có liên quan đến nồng độ hormon tăng cao trong 3 tháng đầu của thai nghén mà chủ yếu là nồng độ estrogen, progesteron và HCG.