- Trang chủ
- Sách y học
- Bài giảng sản phụ khoa
- Bài giảng chửa trứng
Bài giảng chửa trứng
Chửa trứng là do sự phát triển bất thường của các gai rau, nguyên bào nuôi phát triển quá nhanh nên tổ chức liên kết bên trong gai rau cùng với các mạch máu không phát triển theo kịp.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Định nghĩa
Chửa trứng là do sự phát triển bất thường của các gai rau, nguyên bào nuôi phát triển quá nhanh nên tổ chức liên kết bên trong gai rau cùng với các mạch máu không phát triển theo kịp, các gai rau không còn tổ chức liên kết và không còn các mạch máu, trở thành các bọc nước.
Nguyên nhân và các yếu tố thuận lợi
Nguyên nhân chửa trứng hiện nay vẫn chưa được biết rõ, nhưng theo thống kê thì ở các nước kém phát triển có tỉ lệ bệnh cao; ở châu Âu 1/1.000 - 2.000 trường hợp đẻ thường, trong khi đó ở Philipin 1/200; ở Đài Loan 1/82; ở Việt Nam khoảng 1/500.
Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi trong thời kỳ sinh đẻ. Theo Fox, Tow, Novak các yếu tố thuận lợi cho sự phát triển chửa trứng là thiếu dinh dưỡng chủ yếu là thiếu đạm; đẻ nhiều; tuổi cao. Park - Tominaga và Page - Carr đã tìm thấy có bất thường về thể nhiễm sắc ở các tế bào nuôi trong chửa trứng và ung thư nguyên bào nuôi. Đa số ý kiên cho thấy tế bào nuôi trong chửa trứng thường có 4n thể nhiễm sắc, còn ung thư nguyên bào nuôi thường có 2n thể nhiễm sắc kèm với một vài bất thường trong các đôi thể nhiễm sắc.
Người ta còn chú ý đến vấn đề miễn dịch trong chửa trứng. Ahwood-Park và Douglas đã tìm thấy trong 40% các trường hợp chửa trứng có tế bào nuôi xâm nhập vào mạch máu và hiện tượng này thường xảy ra ở thai trên 18 tuần. Nhờ sức đề kháng miễn dịch của cơ thể người mẹ mà các tế bào này không tồn tại và phát triển được. Trường hợp sản phụ không đủ sức đề kháng, không sinh được kháng thể để chống lại sự phát triển của các tế bào nuôi thì chửa trứng sẽ xuất hiện.
Robinson đã ghép da của người chồng cho một phụ nữ bị ung thư nguyên bào nuôi thì thấy không có hiện tượng loại bỏ mảnh da ghép. Như vậy, ở người bị ung thư nguyên bào nuôi bị suy giảm hệ thống miễn dịch hoặc suy giảm miễn dịch là yếu tố thuận lợi cho phát triển ung thư nguyên bào nuôi.
Giải phẫu bệnh
Đại thể
Các gai rau thoái hoá thành các túi trứng to bằng hạt đậu hay bằng quả nho, mỗi túi có một cuống nhỏ dính với nhau thành chùm, trong túi có chứa nước màu trắng trong. Thường chỉ có 1/3 - 2/3 gai rau thoái hoá, bào thai thì chết sớm và tiêu đi. Về đại thể có ba loại chửa trứng:
Chửa trứng toàn phần: hầu hết các gai rau bị thoái hoá, biến thành các túi trứng.
Chửa trứng bán phần: Phần lớn các gai rau biến thành túi nước, còn một phần gai rau bình thường, do đó có các túi trứng và cả rau.
Chửa trứng kèm theo thai nhi: Một phần nhỏ gai rau bị thoái hoá, còn phần lớn gai rau không bị thoái hoá vẫn đủ để nuôi dưỡng thai. Do đó trong buồng tử cung có cả thai, bánh rau và một số túi trứng.
Vi thể
Các gai rau thoái hoá thành các túi trứng, ở ngoài là các nguyên bào nuôi chia làm hai lớp: ngoài là lớp hợp bào trong là lớp đơnn bào còn goi là lớp tế bào Langhans. Lớp hợp bào và lớp đơn bào có thể phát triển lành tính hoặc hỗn loạn. Vì vậy người ta chia làm hai loại:
Chửa trứng lành tính: lớp hợp bào không bị phá vỡ, lớp đơn bào không ăn vào lớp niêm mạc tử cung.
Chửa trứng ác tính: lớp hợp bào mỏng đi và có từng vùng bị phá vỡ, lớp đơn bào ở trong xâm lấn ra ngoài, tràn vào niêm mạc tử cung và ăn sâu vào lớp cơ tử cung, có khi ăan thủng lớp cơ tử cung gây chảy máu trong ổ bụng.
Nang hoàng tuyến
Khi chửa trứng hCG tăng cao, kích thích hoàng thể thai nghén ơ buồng trứng phát triển thành nang hoàng tuyến. Nang hoàng tuyến có thể có hoặc không có, nếu có thì thường có cả hai bên buồng trứng. Nang có thể to hoặc nhỏ, trong nang có chứa nước màu vàng chanh. Sau khi nạo hoặc sẩy, nang sẽ tự mất dần nếu không có biến chứng.
Triệu chứng cơ năng
Ra máu: Là triệu chứng quan trọng đầu tiên. Ra máu sớm vào tháng thứ hai đến tháng thứ tư, máu ra tự nhiên; màu đen họăc đỏ; ra ít một và kéo dài dai dẳng, bệnh nhân xanh xao, niêm mạc nhợt nhạt thiếu máu, mệt mỏi vẻ mặt hốc hác.
Ngén bất thường: Bệnh nhân nôn nhiều hơn các lần có thai bình thường trước.
Dấu hiệu nhiễm độc thai nghén: Phù, huyết áp cao, có protein niệu. Đôi khi có dấu hiệu vàng da, nước tiểu vàng ( Robert).
Trình trạng cường giáp với tuyến giáp to, nhịp tim nhanh, da bàn tay ấm, run tay... chiếm khoảng 10% trường hợp. Thường thấy ở thể nặng khi chiều cao tử cung trên 16 cm, nồng độ hCG trong nước tiểu trên 1.000.000 đơn vị qquốc tế/ 24 giờ.
Triệu chứng thực thể
Tử cung: Mật độ tử cung mềm, không sờ thấy các phần của thai nhi ( trừ loại có kèm thai nhi). Tử cung to hơn tuổi thai ( trừ loại chửa trứng thoái hoá thì tử cung không to hơn tuổi thai).
Nghe tim thai: Không nghe thấy tim thai.
Âm đạo mềm, có thể nhìn thấy nhân di căn âm đạo to bằng đầu ngón tay, màu tím dễ chảy máu. Nhân di căn thường xuất hiện ở thành trước âm đạo.
Phần phụ: Có thể sờ thấy nang hoàng tuyến hai bên, di động dễ.
Xét nghiệm
Phản ứng sing vật: Lượng hCG ( human chorionic gonadotropin) trong có thai thường cao nhất vào cuối tháng thứ hai đầu tháng thứ ba, nhưng dưới mức 20.000 đơn vị ếch. Trong chửa trứng lượng hCG sẽ tăng trên 20.000 đơn vị ếch.
ßhCG: Nồng độ ßhCG tăng rất cao trong chửa trứng, thường là trên 500.000 đơn vị quốc tế trong 24 giờ. Tuy nhiên chẩn đoán có thể nhầm lẫn nếu chỉ dựa vào một lần định lượng ßhCG duy nhất vì những lý do sau:
Trong một số trưòng hợp thai thường ở khoảng 10 tuần tuổi thai hay một số trường hợp đa thai, lượng ßhCG có thể trên 500.000 đơn vị quốc tế/24 giờ.
Ngược lại, đôi khi chửa trứng cũng có thể có nồng độ ßhCG trong máu không cao.
Estrogen: Trong nước tiểu estrogen dười dạng estron, estradiol hay estriol đều thấp hơn so với thai thường do sự rối loạn chế tiết của rau thai và do không có sự biến đổi estradiol thành estriol xảy ra ở tuyến thượng thận của thai nhi. Sự khác biệt về nồng độ estrogen này thấy rõ khi tuổi thai trên 14 tuần.
hPL ( human placental lactogen): hPL thường cao trong thai thường nhưng lại rất thấp trong chửa trứng, do nguyên bào nuôi trong chửa trứng không tổng hợp được hPL một cách bình thường. Nếu hPL thấp mà ßhCG cao thì có thể chẩn đoán chính xác chửa trứng. Trong thai thường từ khoảng 25 tuần trở đi, nồng độ hPL trong huyết thanh vào khoảng > 10 mcg/ml.
Siêu âm
Doppler không nghe thấy tim thai.
Siêu âm không thấy hình ảnh phôi thai mà chỉ thấy lốm đốm được ví như hình ảnh tuyết rơi, hình ảnh chùm nho.
X quang
Chụp tử cung không chuẩn bị đối với những bệnh nhân có chiều cao tử cung trên 14 cm, nếu không thấy hình xương thai thì rất nghi ngờ chửa trứng.
Chụp buồng ối sau khi bơm chất cản quang vào buồng tử cung 5 phút (loại tan trong nước) sẽ thấy hình ảnh dạng tổ ong dấu hiệu tương đối chắc chắn của chửa trứng. Theo Kistener kết quả chẩn đoán đúng của phương pháp này là 100%. Hiện nay chụp buồng ối không còn được sử dụng nữa do tính hiệu quả cũng như sự vô hại của siêu âm chẩn đoán.
Chẩn đoán xác định
Thường dễ đối với những trường hợp điển hình:
Ra máu dai dẳng.
Tử cung to hơn tuổi thai.
Lượng hCG tăng cao.
Đôi khi khó chẩn đoán, cần phối hợp nhiều triệu chứng và nhiều xét nghiệm cận lâm sàng để chẩn đoán.
Chẩn đoán phân biệt
Chửa trứng có thể nhầm với:
Doạ sẩy thai thường: Tử cung không to hơn tuổi thai, lượng hCG dưới 20.000 đơn vị ếch.
Thai chết lưu: Dễ nhầm trong trường hợp chửa trứng bán phần. Thai chết lưu thường tử cung nhỏ hơn so với tuổi thai, vú căng có thể có tiết sữa, phản ứng sinh vật âm tính.
U xơ tử cung: Có thể có triệu chứng rong huyết, không có triệu chứng thai nghén, phản ứng sinh vật âm tính.
Nghén nặng trong thai thường: Tử cung không to hơn tuổi thai, lượng hCG dưới 20.000 đơn vị ếch, siêu âm thấy âm vang thai, hoạt động tim thai.
Chửa ngoài tử cung: Có tiền sử thai nghén, lượng hCG thấp, tử cung nhỏ hơnn nhiều so với tuổi thai. Cần kết hợp với siêu âm để chẩn đoán, ở những cơ sở có điều kiện có thể áp dụng soi ổ bụng để chẩn đoán sớm chửa ngoài tử cung đối với những trường hợp khó.
Tiến triển và biến chứng
chửa trứng nếu không được chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời, thường sẩy tự nhiên gây chảy máu rất nhiều.
Tiến triển tốt
Sau nạo thai trứng, khoảng 80 - 90% các trường hợp:
Hết ra máu âm đạo.
Tử cung co hồi nhanh trong vòng 5 - 6 ngày.
Nang hoàng tuyến nếu có sẽ thu nhỏ dần rồi biến mất.
Nồng độ hCG giảm nhanh trong tuần đầu sau nạo. Theo Kistner, 80% bệnh nhân có lượng hCG trong nước tiểu trở về mức bình thường trong vòng 30 - 60 ngày sau khi được nạo hút trứng.
Tiến triển xấu
Băng huyết: nếu không được điều trị, trứng sẽ sẩy tự nhiên; khi sẩy gây băng huyết nặng và dễ sót trứng, sót rau.
Thủng tử cung: Nếu là chửa trứng ác tính ăn sâu vào lớp cơ tử cung, có thể làm thủng tử cung gây chảy máu tràn ngập ổ bụng rất nguy hiểm.
Nhiễm khuẩn: Viêm niêm mạc tử cung gây rong huyết.
Ung thư nguyên bào nuôi: Chửa trứng rất dễ biến chứng thành ung thư nguyên bào nuôi, tỷ lệ biến chứng 15 -17%. Vì vậy chửa trứng phải được chẩn đoán sớm, theo dõi sát để phát hiện và xử trí kịp thời biến chứng ung thư nguyên bào nuôi.
Xử trí
Trong lúc chửa trứng
Khi đã chẩn đoán xác định là chửa trứng thì phải xử trí sớm để tránh biến chứng.
Nếu có máy hút thì nên hút trứng cho mọi trường hợp. Trong khi nạo, tiêm truyền nhỏ giọt tĩnh mạch 500ml huyết thanh ngọt đẳng trương cùng với 5 đơn vị oxytocin. Nong cổ tử cung đến số 12, thường nong dễ vì cổ tử cung mềm. Dùng máy hút để hút trứng ra cho tới khi tử cung co nhỏ lại hợc dùng kìm hình tim hướng theo chiều tử cung gắp dần các túi trứng ra. Dùng thìa to và cùn nạo lạ buồng tử cung. Sau 2-3 ngày nạo lại buồng tử cung. Sau nạo phải cho bệnh nhân dùng kháng sinh để đề phòng nhiễm khuẩn.
Cắt tử cung dự phòng cả khối: Do tỉ lệ biến chứng thành ung thư nguyên bào nuôi cao nên với những nngười trên 35 tuổi và đẻ nhiều lần thì xử trí có thể nạo trứng rồi cắt tử cung dự phòng hoặc cắt tử cung cả khối mà không nạo.
Trong lần nạo đầu tiên phải rất cẩn thận vì dễ bị thủng tử cung. Bệnh phẩm hút nạo phải được gửi xét nghiệm giải phẫu bệnh lý. Tất cả túi trứng, rau thai, thai ( nếu có), mô nạo sát niêm mạc tử cung đều phải xét nghiệm giải phẫu bệnh lý; mỗi loại nên để riêng trong một lọ bệnh phẩm.
Chửa trứng ác tính có nhân di căn: Nguyên tắc xử trí là cắt tử cung hoàn toàn, lấy nhân di căn ( nếu vị trí di căan có thể phẫu thuật được), đông thời điều trị bằng hoá chất chống ung thư. Chỉ tron trường hợp bệnh nhân ít tuổi, có thai lần đầu, tha thiết muốn có con, di căn âm đạo ít chúng ta mới đặt vấn đề nạo trứng lấy nhân di căn và điều trị hoá chất giữ lại tử cung; nhưng phải theo dõi sát, nếu điều trị bảo tồn không kết quả thì phải mổ cắt tử cung đồng thời điều trị hoá chất phối hợp.
Theo dõi sau nạo
Ngay sau khi naọ trứng đã phải thứ xét nghiệm giải phẫu bệnh lý để xem chửa trứng lành tính hay chửa trứng xâm nhập (ác tính).
Đè phòng nhiễm khuẫn sau nạo bằng cách cho kháng sinh dự phòng 5 ngày và thuốc co tử cung.
Theo dõi lâm sàng: Sau nạo trứng từ 3 đến 4 tuần, những đặc điểm về giải phẫu, sinh lý của bộ phận sinh dục trở lại bình thường. Sau thời gian đó nếu tử cung còn to, còn ra máu, nang hoàng tuiyến không mất đi, thì phải nghĩ đến biến chứng thành ung thư nguyên bào nuôi. Nếu thấy xuất hiện nhân di căn thì càng chắc chắn hơn.
Theo dõi bằng phản ứng sinh vật: Sau nạo trứng phải định lượng hCG mỗi tuần một lần cho đến khi hCG xuống âm tính. Sau khi đã xuống âm tính thì trong ba tháng đầu cứ hai tuần định lượng hCG một lần. 6 tháng tiếp theo cứ mỗi tháng định lượng hCG một lần, nếu các kết quả trước đó đều âm tính. Trong năm tiếp theo, hai tháng định lượng hCG một lần.
Nếu nồng độ hCG còn cao bất thường phải chụp X quang phổi để tìm di căn của ung thư nguyên bào nuôi.
Khuyên bệnh nhân phải sau hai năm mới có thai lại, vì nếu bệnh nhân có thai lại sớm thì nguy cơ bị chửa trứng cũng như ung thư nguyên bào nuôi rất cao, nặt khác làm khó khăn cho việc theo dõi bệnh. Phương pháp tránh thai nên dùng là túi cao su hay xuất tinh ngoài âm đạo. Không dùng thuốc uống tránh thai hay dụng cụ tử cung trong thời gian theo dõi sau nạo thai trứng.
Phòng bệnh
Vì nguyên nhân của chửa trứng còn chưa được biết rõ nên phòng bệnh tốt nhất là nâng cao mức sống, thực hiện sinh đẻ có kế hoạch, chẩn đoán bệnh sớm để xử trí kịp thời, theo dõi sót rau, sót trứng. Sau nạo phải theo dõi chặt chẽ đè phòng và phát hiện sớm biến chứng thành ung thư nguyên bào nuôi.
Bài viết cùng chuyên mục
Bài giảng ung thư cổ tử cung
Ung thư cổ tử cung (UTCTC) là khối u ác tính đứng hàng thứ hai sau ung thư vú, thường xảy ra ở ranh giới giữa biểu mô lát tầng và biểu mô trụ của cổ tử cung.
Bài giảng cơ chế đẻ ngôi chỏm kiểu thế chẩm chậu trái trước
Ngôi chỏm, kiểu thế chẩm chậu trái trước gặp ở các bà mẹ có khung chậu bình thường, thành bụng còn chắc (đẻ ít), bộ phận sinh dục không có dị dạng, còn thai nhi, ối, rau cũng bình thường.
Bài giảng các phương pháp đình chỉ thai nghén
Đình chỉ thai là một thủ thuật an toàn nếu được thực hiện trong điều kiện đảm bảo và do cán bộ y tế đủ trình độ đảm trách. Vì vậy, việc áp dụng các biện pháp đình chỉ thai nghén nên thực hiện ở các tuyến y tế có đủ điều kiện, nhằm giảm các tai biến có thể xảy ra.
Bài giảng thai chết lưu
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra thai chết lưu và cũng có nhiều trường hợp thai chết lưu mà không tìm được nguyên nhân. Người ta cho rằng có từ 20 đến 50% số trường hợp thai chết lưu không tìm thấy nguyên nhân.
Bài giảng sốc trong sản khoa
Đối với sốc xảy ra do tai biến khi đẻ như vỡ tử cung, rau tiền đạo, rau bong non nếu là con so, chuyển dạ kéo dài, sản phụ lo lắng, mệt mỏi
Bài giảng u xơ tử cung
Ở ngay khối u, niêm mạc tử cung và ống dẫn trứng nhất là đối với polyp thò ra ngoài cổ tử cung bị nhiễm khuẩn hoặc hoại tử: đau bụng, sốt, bạch cầu tăng, toàn thân suy sụp.
Bài giảng ung thư niêm mạc tử cung
Ung thư niêm mạc tử cung là các khối u phát triển từ niêm mạc tử cung, là một loại ung thư thường gặp ở người lớn tuổi. Có hơn 80% bệnh nhân ung thư niêm mạc tử cung gặp ở người mãn kinh, trong đó có khoảng 95% có nguồn gốc từ biểu mô tuyến của nội mạc tử cung.
Bài giảng bệnh lành tính của vú
Các bệnh về vú thường gặp trong phụ khoa phát hiện và khám chữa bệnh thường muộn. Nêu người phụ nữ tự phát hiện được và điều trị sớm thì kết quả tốt.
Bài giảng sự chuyển dạ
Cho tới nay người ta chưa biết rõ ràng và đầy đủ những nguyên nhân phát sinh những cơn co chuyển dạ. Người ta đã đưa ra nhiều giả thuyết để giải trình, có một số giả thuyết được chấp nhận.
Bài giảng u nang buồng trứng
Đau vùng chậu, gây vô kinh hoặc muộn kinh dễ nhầm với chửa ngoài tử cung, có thể xoắn nang, vỡ nang gây chảy máu phải soi ổ bụng hoặc mở bụng để cầm máu.
Bài giảng rau tiền đạo
Phần lớn bánh rau bám vào thân tử cung, chỉ một phần nhỏ bám vào đoạn dưới, không gây chảy máu, thường hay gây vỡ ối sớm. Đa số được chẩn đoán hồi cứu sau khi sổ rau.
Bài giảng nôn do thai nghén
Nguyên nhân gây nôn chưa rõ, nhưng người ta tin rằng nó có liên quan đến nồng độ hormon tăng cao trong 3 tháng đầu của thai nghén mà chủ yếu là nồng độ estrogen, progesteron và HCG.
Bài giảng sự dậy thì
Mặc dầu yếu tố quyết định chính tuổi dậy thì là di truyền, cũng còn có những yếu tố khác ảnh hưởng đến thời điểm bắt đầu dậy thì và sự phát triển dậy thì như địa dư nơi ở, sự tiếp xúc với ánh sáng, sức khoẻ chung, dinh dưỡng và yếu tố tâm lý.
Những nét cơ bản của môn sản phụ
Sản khoa là môn học về thai nghén, sự sinh đẻ và các bệnh lý có liên quan tới thai nghén và sinh đẻ. Thông thường sản khoa bao gồm 3 phần: sản thường, sản khó và sản bệnh lý.
Bài giảng vỡ tử cung
Vỡ tử cung không hoàn toàn (còn gọi vỡ tử cung dưới phúc mạc): Tổn thương từ niêm mạc đến rách cơ tử cung nhưng phúc mạc còn nguyên, thường gặp vỡ ở đoạn dưới.
Bài giảng chẩn đoán thai nghén
Nghén: Là sự thay đổi của người phụ nữ do tình trạng có thai gây nên. Nghén được biểu hiện: buồn nôn, nôn, tiết nước bọt, thay đổi về khứu giác, vị giác, tiết niệu, thần kinh và tâm lý.
Bài giảng song thai (thai đôi)
Trên siêu âm chúng ta nhìn thấy 1 bánh rau, 2 buồng ối mà vách ngăn 2 buồng ối mỏng, không thấy dấu hiệu Lambda. Đó là song thai 1 bánh rau, 2 buồng ối và là song thai 1 noãn.
Bài giảng ngôi thóp trước trong sản khoa
Ngôi thóp trước là ngôi đầu hơi ngửa, ngôi trung gian giữa ngôi chỏm và ngôi trán. Người ta cũng coi ngôi thóp trước là một loại ngôi trán sờ thấy thóp trước, ngôi trán hơi cúi. Tiên lượng và cách xử trí gần giống ngôi trán.
Bài giảng tư vấn HIV, AIDS cho phụ nữ mang thai
Tư vấn không phải là dạy dỗ, khuyên bảo, mà là một quá trình trong đó người tư vân tìm hiêu và giúp người được tư vân tìm hiêu hoàn cảnh, tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của mình để giúp cho họ tìm hiểu khả năng và nhu cầu của bản thân, tự tin vào chính mình.
Bài giảng viêm ruột thừa khi mang thai
Chẩn đoán viêm ruột thừa trong lúc mang thai thường khó khăn hơn bình thường vì điểm đau không điển hình; đặc biệt nếu viêm ruột thừa xảy ra trong chuyển dạ.
Sử dụng một số hormon trong sản phụ khoa
Trong trường hợp u xơ tử cung chưa muốn chỉ định mổ vì nhu cầu sinh sản, có thể dùng teslosteron propionat 25mg tiêm bắp thịt mỗi tuần. Kinh nguyệt có thể trở lại bình thường và khả năng sinh sản vẫn được duy trì
Bài giảng chăm sóc và quản lý thai nghén
Tử vong mẹ phần lớn xảy ra trong tuần đầu sau khi sinh (60%), đặc biệt là 24 giờ đầu sau khi sinh mà nguyên nhân chảy máu là chiếm hàng đầu.
Bài giảng viêm phần phụ
Viêm nhiễm đường sinh dục là một trong những bệnh phổ biến ở phụ nữ, nó có liên quan mật thiết với quan hệ tình dục, nhất là trong những trường hợp có nhiều bạn tình, ý thức vệ sinh tình dục kém.
Bài giảng đa thai (nhiều thai)
Tỉ lệ sinh đôi một noãn tương đối hằng định trên toàn thế giới, không phụ thuộc vào chủng tộc, di truyền, tuổi và số lần đẻ. Ngược lại, tỉ lệ sinh đôi hai noãn chịu ảnh hưởng nhiều yếu tố.
Bài giảng sốt rét và thai nghén
Sốt rét là một bệnh nguy hiểm đặc biệt là sốt rét ác tính, vì nó đe dọa tính mạng của sản phụ và thai nhi. Người ta nhận thấy tiên lượng thường xấu đối với người có thai con so bị bệnh sốt rét ác tính.