Hệ nhóm máu ABO, Rh, các hệ khác và an toàn truyền máu

2015-08-11 04:37 PM

Các kháng nguyên nhóm máu, là các sản phẩm protein trên màng hồng cầu, mà quá trình tổng hợp, những protein này được mã hóa.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Đại cương về nhóm máu

Trên màng tế bào thân của cơ thể người có những protein đặc trưng và hhững protein này có đặc tính kháng nguyên (kích thích các cơ thể thiếu nó tạo nên kháng thể). Trên màng hồng cầu có những kháng nguyên hồng cầu, trên màng bạch cầu, tiểu cầu có những kháng nguyên bạch cầu và tiểu cầu.

Cơ sở di truyền của nhóm máu

Các kháng nguyên nhóm máu là các sản phẩm protein trên màng hồng cầu, mà quá trình tổng hợp những protein này được mã hóa bởi các gen nằm trên nhiễm sắc thể, các gen tập hợp thành hệ thống. Sự phối hợp giữa các gen của một hay nhiều hệ thống (kiểu gen) sẽ tạo ra những tính trạng (kiểu hình) đó là nhóm máu. Ví dụ người nhóm máu AB là do có cả gen A và gen B trong hệ nhóm máu ABO; người nhóm máu Le (a-b+) là người đồng thời có gen Le của hệ Le le và gen Se của hệ Se se.

Alen: là một dạng trong những dạng có thể của một hệ thống gen. Mỗi vị trí đặc thù trên nhiễn sắc thể (NST) gọi là locus chỉ có một alen. Ví dụ locus (vị trí gen) của hệ ABO nằm ở nhiễm sắc thể số 9 và ở đó chỉ một trong ba gen: A hoặc B hoặc 0 (A là alen của B và o, A và B là alen của 0).

Các alen chiếm các locus hoàn toàn giống nhau trên 2 nhiễm sắc thể tương đồng và khi phân bào giảm nhiễm chúng phân ly độc lập với nhau.

Kiểu gen: là toàn bộ thông tin di truyền cho một hệ nhóm máu của một cá thể, nói lên sự có mặt của các alen của hệ thống đó.

Muốn xác định kiểu gen người ta thường suy diễn từ kiểu hình của cá thể phối hợp với nghiên cứu phả hệ. Ngày nay có thể sử dụng kỹ thuật sinh học phân tử đề xác định kiểu gen.

Kiểu hình: là tính trạng được thể hiện.

Nhóm liên kết: là tập trung các gen ở trên cùng một NST; thường cùng đi vói nhau qua phân bào giảm nhiễm.

Kháng nguyên nhóm máu

Là các kháng nguyên có mặt trên màng hồng cầu, có sự khác nhau giữa cá thế này và cá thể khác và được tập hợp.thành từng hệ thống ứng với các đơn vị di truyền khác nhau. Các đơn vị di truyền này truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác theo quy luật Menden.

Một điều lưu ý là nhiều hệ thống di truyền độc lập nhưng có thể hoạt động liên quan để tạo ra các tính trạng nhóm máu như hệ ABO và Lewis.

Các kháng nguyên nhóm máu có khả năng kích thích sinh kháng thể và có một số đặc điếm.

Kháng nguyên hút và kháng nguyên bị che lấp

Một số kháng nguyên không do tế bào sản xuất ra mà được hút lên màng tế bào từ môi trường trong cơ thể (huyết tương) ví dụ kháng nguyên hệ Levvis.

Một số^ kháng nguyên khác bị che lấp và phải dùng biện pháp xử lý với men tiêu protein mới có thể phát hiện được bằng kháng thể tương ứng.

Kháng nguyên bộ phận và kháng nguyên phối hợp

Một phân tử kháng nguyên có thể có nhiều vị trí gọi là quyết định kháng nguyên, mỗi quyết định kháng nguyên sẽ kích thích cơ thể lạ sinh một loại kháng thể tương ứng ví dụ kháng nguyên X vào cơ thể lạ sẽ kích thích cơ thể sinh ra kháng thể chống A, chống B, chống C (hình)

Các kháng thể a, b, c chống lại các kháng nguyên X 

Hình. Các kháng thể a, b, c chống lại các kháng nguyên X

Hai kháng nguyên với hai kháng thể đặc hiệu khác nhau nhưng trong không gian khi hai kháng nguyên này kết hợp với nhau có thể tạo ra một cấu trúc mối và được xác định bằng một kháng thể thứ ba gọi là kháng nguyên phối hợp.

Phản úng chéo

Nếu hai kháng nguyên khác nhau nhưng có một hoặc nhiều quyết định kháng nguyên giống nhau có thể có sự phản ứng chéo giữa kháng thể của kháng nguyên này chống kháng nguyên kia.

Kháng nguyên phố biến

Một số kháng nguyên trên hồng cầu người nhưng cũng rất phổ cập trong tự nhiên.

Kháng thể nhóm máu (hồng cầu)

Kháng thể xuất hiện sau miễn dịch khác nhóm, phần lớn là IgG hay IgM. Đặc biệt có kháng thể hồng cầu xuất hiện thường xuyên và tồn tại đều đặn mà không qua một sự miễn dịch cụ thể nào gọi là kháng thể tự nhiên.

Kháng thể tự nhiên

Là những globulin miễn dịch mà nguồn gốc đang được tranh cãi, chúng xuất hiện từ lúc trẻ mới ra đòi, không qua một sự kích thích cụ thể. Có thể do những kháng nguyên này rất phổ biến trong thiên nhiên nhất là vi khuẩn và đã kích thích hệ miễn dịch từ trước. Một số kháng thể tự nhiên và đều đặn (luôn luôn tồn tại trong cả cuộc sống), thường là IgM như chống A, chống B, chống A + B là kháng thể đủ, hoạt động tốt ở nhiệt độ lạnh 4°c trong môi trường nước muối.

Kháng thể miễn dịch

Xuất hiện sau một kích thích miễn dịch. Có thai nhiều lần và truyền máu là những nguyên nhân gây ra kháng thể miễn dịch như kháng thể chống Rh, chống Kel, chống Duffy...

Những kháng thể này thường là IgG, hoạt động ở nhiệt độ 37°c và không gây ngưng kết, muôn phát hiện được phải sử dụng một số phương pháp.

Khả năng tạo kháng thể không giống nhau từ cá thể này sang cá thể khác, một số có khả năng miễn dịch nhiều hơn, một số cá thể khác hình như được bảo vệ, ít có phản ứng miễn dịch, cơ chế của hiện tượng này chưa rõ.

Phản ứng kháng nguyên - Kháng thể nhóm máu

Trong cơ thể

Kháng thể gắn lên kháng nguyên trên hồng cầu ở trong cơ thể có thể dẫn đến:

Làm ngưng kết hồng cầu, phá vỡ hồng cầu trong lòng mạch sau vài phút.

Cố định lên hồng cầu và kéo theo kết hợp bổ thể, làm tan hồng cầu.

Cố định lên hồng cầu, làm thay đổi màng hồng cầu, sau đó các hồng cầu này bị các tế bào thực bào ở hệ liên võng tiêu diệt (ở lách, gan). Nghiên cứu đời sống của hồng cầu truyền vào có thể biết được có kháng thể chống lại hồng cầu đó ở người nhận hay không.

Trong ống nghiệm

Phản ứng tan hồng cầu

Với sự có mặt của bổ thể.

Phản úng ngung kết

Cơ chế của hiện tượng ngưng kết:

Bình thường khi treo trong nước muối đẳng trương, các hồng cầu mang điện tích âm “đẩy nhau”. Khoảng cách giữa các hồng cầu là lớn. Khi có mặt kháng thể đặc hiệu với kháng nguyên trên màng hồng cầu thì kháng thể sẽ nối với kháng nguyên bằng luật tác động khối và làm hồng cầu ngưng kết.

Các giả thuyết của cơ chế ngưng kết: Lý thuyết Border: màng hồng cầu có điện tích âm; nên sẽ kéo các ion (+) vào xung quanh tạo đám mây điện tích (+), hiệu số điện thế giữa “đám mây” này với dung dịch là hiệu số điện thế zeta. Hiệu số này càng cao, hồng cầu càng xa nhau, khi giảm hiệu số zeta sẽ làm hồng cầu ngưng kết: nếu kháng thể là IgM sẽ làm giảm hiệu số zeta nhiều, đủ làm hồng cầu ngưng kết. Kháng thể IgG thường chưa đủ khả năng giảm “zeta” nhiều nên hồng cầu chưa ngưng kết mà phải dùng một số phương pháp xử lý.

Ngưng kết do nguồn gốc miễn dịch:

Sự kết hợp giữa kháng nguyên - kháng thể, sau đó tạo nên những cụm ngưng kết trong điều kiện thích hợp.

Ngưng kết không do miễn dịch:

Có một số chất có thể tạo nên sự ngưng kết không đặc hiệu với mọi hồng cầu đó là: các chất tẩy, các cation kim loại, các chất có điện tích hay trơ như polybren, những chất có nguồn gốc thực vật như concanavalin A, các lectin.

Các yếu tố ảnh hưởng đến ngưng kết:

Phản ứng giữa kháng nguyên hồng cầu và kháng thể có thể ngưng kết được hay không, tốc độ và cường độ ngưng kết phụ thuộc vào:

- Đặc điểm kháng thể

Bản chất kháng thể (kháng thể ngưng kết và kháng thể không ngưng kết): Kháng thể ngưng kết là kháng thể có khả năng làm ngưng kết hồng cầu ở môi trường nước muối 0,9%, ngược lại những kháng thể không làm ngưng kết hồng cầu ở môi trường nước muối gọi là kháng thể không ngưng kết. Nói chung kháng thể tự nhiên, đều đặn thường là IgM và là kháng thể ngưng kết. Các kháng thể miễn dịch IgG thường không gây ngưng kết mà phải sử dụng các biện pháp khác.

Nồng độ kháng thể: đánh giá một kháng thể cần dựa vào tính đặc hiệu với kháng nguyên, hiệu giá và ái lực. Nồng độ kháng thể và bản chất kháng thể liên quan đến ngưng kết: Người ta thấy chỉ cần 25 phân tử kháng thể loại IgM gắn lên kháng nguyên trên hồng cầu có thể gây ngưng kết, trong khi đó phải cần tới 200.000 phân tử IgG mới gây được ngưng kết. Tuy nhiên, một số kháng thể nếu nồng độ quá caọ có thể ức chế ngưng kết, tạo hiện tượng khu vực, muốn phát hiện cần pha loãng ở cág mứG khác nhau.

- Kháng nguyên

Số vị trí kháng nguyên trên một hồng cầu ảnh hưởng đến ngưng kết nêu số vị trí kháng nguyên (các quyết định kháng nguyên - nơi kháng thể gắn vào) trên hồng cầu quá thấp (dưới 200.000 trên mỗi hồng cầu) thì hiện tượng ngưng kết khó xảy ra. Ngoài ra đặc điểm của kháng nguyên cũng có vai trò tạo ra ngưng kết (kháng nguyên được bộ lộ dễ tạo ngưng kết, một số kháng nguyên bị che lấp phải nhò đến các biện pháp như dùng men để tạo ngưng kết).

Tỷ lệ kháng nguyên trong phản ứng cũng quan trọng và cần tương ứng với kháng thể. Thường khi định nhóm máu ABO người ta dùng hồng cầu pha trong nước muối 2% (để xét nghiệm trong ông nghiệm), và 5% (để xét nghiệm trên phiến đá).

- Các yếu tố ảnh hưởng khác.

pH: pH từ 6,9 - 7,2 là tốt nhất cho phản ứng ngưng kết; nhưng thay đổi trong khoảng 6-8 thường ít ảnh hưởng. Một số kháng thể lạnh như kháng thể chống M (hệ MN) thường yếu cầu môi trường acid để hoạt động.

Nhiệt độ: mỗi loại kháng thể hoạt động tốt ở một nhiệt độ thích hợp, thường có 3 loại nhiệt độ:

+ Ở 4°C: thích hợp cho kháng thể lạnh (phần lớn IgM) thường thuộc các hệ I,H, ABO, Lewis, MN, p.

+ Ở 22°C: kháng thể lạnh hoạt động tốt ở 4°c song 22°c vấn cho phản ứng.

+ Ở 37°C: thích hợp cho kháng thể nóng, thường là IgG, thuộc các hệ Rhesus, Kell, Kidd, Duffy.

Lực ion của môi trường: nếu lực ion môi trường tăng sẽ tạo điều kiện ngưng kết (làm giảm điện thế zeta).

Ủ: bình thường trong định nhóm ABO với phương pháp dùng huyết thanh mẫu, thường thấy ngưng kết nhanh. Nhưng đốì với những kháng nguyên yếu và kháng thể không bình thường người ta thấy tình trạng cân bằng của phản ứng đạt được sau 15 - 60 phút ở nhiệt độ thích hợp.

Lắc và li tâm: Phản ứng trong ống nghiệm thường nên ly tâm 10-30 giây với tốc độ 1000 vòng/ phút sau đó lắc nhẹ, trộn đều.

Sự có mặt của men và đại phân tử:

Men tiêu protein (papain, trypsin) phân giải một số protein trên màng hồng cầu làm bộc lộ các quyết định kháng nguyên bình thường vẫn bị che lấp, nên giúp nhiều kháng thể kết hợp tạo hiện tượng ngưng kết.

Trong môi trường đại phân tử, các chất đại phân tử làm thành yếu tố cách điện, làm tăng hằng số điện môi, nên giảm điện thế zeta do đó dễ ngưng kết.

Phản úng ngưng kết nhân tạo

Nhiều khi kháng thể cố định lên hồng cầu song không làm ngưng kết hồng cầu được mà phải dùng các biện pháp nhân tạo để giúp hồng cầu ngưng kết nhằm phát hiện sự có mặt của kháng thể.

Phản ứng Coombs, Mourant, Race:

Còn gọi là nghiệm pháp anti gamma globulin.

Dùng một kháng thể đặc hiệu chống gamma globulin người để làm ngưng kết các hồng cầu đã gắn kháng thể trên bề mặt. Các kháng thể đơn giá (có một vị trí kết hợp kháng nguyên) cố định lên các kháng nguyên trên bề mặt hồng cầu nhưng chưa đủ khả năng làm ngưng kết hồng cầu. Những kháng thể này trở thành kháng nguyên trong phản ứng Coombs.

Có hai loại phản ứng Coombs:

Phản ứng Coombs trực tiếp để phát hiện kháng thể trên hồng cầu.

Phản ứng Coombs gián tiếp phát hiện kháng thể còn tự do trong huyết thanh.

Phản ứng sử dụng men tiêu protein: (trypsin, bromelin, papain):

Hồng cầu được xử lý men sẽ giảm điện lượng cho nên điện thế zeta giảm do đó dễ ngưng kết với những kháng thể không làm ngưng kết tự nhiên được. Đồng thời với một số kháng nguyên bị che lấp, men sẽ tạo điều kiện bộc lộ do đó có nhiều kháng thể kết hợp và xảy ra hiện tượng ngưng kết.

Cần lưu ý tốn trọng các điều kiện pH, nhiệt độ và thời gian xử lý men.

Xử lý men giúp phát hiện một số kháng thể của một số kháng nguyên như hệ Rh, p, Jka, s, Kell, I, Celano, Lea, Leb (kháng nguyên ẩn, kháng nguyên yếu).

Phản ứng trong môi trường đại phân tử:

Một số đại phân tử khi cho vào môi trường sẽ làm tăng hằng số điện của môi trường nên giảm điện thế zeta cho nên kháng thể dễ làm ngưng kết hồng cầu. Albumin bò nồng độ 25% ở 37°c sẽ giúp phát hiện các kháng thể hệ Rh.

Hệ nhóm máu ABO

Lịch sử phát hiện

Phát hiện ra hệ ABO là một công hiến lớn cho ngành Huyết học và Truyền máu. Qua việc phân tích sự ngưng kết giữa hồng cầu của người này và huyết thanh người kia, năm 1900 Landsteiner nêu lên 3 nhóm hồng cầu, dựa vào sự có mặt của kháng nguyên trên hồng cầu.

Nhóm A: trên họng cầu có kháng nguyên A, bị ngưng kết bởi kháng thể chống A.

Nhóm B: trên hồng cầu có kháng nguyên B, bị ngưng kết bởi kháng thể chống B.

Nhóm O: trên hồng cầu không có kháng nguyên A, không có kháng nguyên B, không bị ngưng kết bởi kháng thể chống A và chống B.

Năm 1902 Decastello và Sturli phát hiện nhóm máu thứ tư - nhóm AB có cả kháng nguyên A và B trên hồng cầu và bị ngưng kết với cả chống A và chống B.

Đặc điểm bốn nhóm máu chính hệ ABO

Hệ nhóm ABO có đặc điểm là trong huyết thanh của một người có các kháng thể tự nhiên chống lại kháng nguyên vắng mặt trên hồng cầu của người đó; những kháng thể này tự nhiên đã có và có suốt đời.

Người không có kháng nguyên A trên hồng cầu (nhóm B và nhóm O) sẽ có kháng thể chống A trong huyết thanh.

Người không có kháng nguyên B trên hồng cầu (nhóm A và nhóm O) sẽ có kháng thể chống B trong huyết thanh.

Người có cả kháng nguyên A và B (nhóm máu AB) sẽ không có kháng thể trong huyết thanh.

Người không có kháng nguyên A, không có kháng nguyên B trên hồng cầu (nhóm O) thì trong huyết thanh có cả kháng thể chống A và chống B.

Có thể tóm tắt ở bảng sau (bảng).

Đặc điểm các nhóm máu hệ ABO và tỷ lệ 

Bảng. Đặc điểm các nhóm máu hệ ABO và tỷ lệ

Do đặc điểm này, người ta có thể sử dụng hai phương pháp để định nhóm máu hệ ABO.

Phương pháp xác định kháng nguyên bằng huyết thanh mẫu (phương pháp Beth-Vincent).

Phương pháp xác định kháng thể trong huyết thanh bằng cách dùng hồng cầu mẫu (phương pháp Simonin).

Các kháng nguyên hệ ABO

Như phần trên, hệ thống ABO có hai kháng nguyên và sự có mặt của chúng ở trên màng hồng cầu quyết định tên nhóm máu. Nhưng kháng nguyên A và B cũng có một số biến tướng.

Các biến tướng của kháng nguyên A

Nhóm A1 và A2: Năm 1911, người ta xác định có hai kháng nguyên A là A1 và A2 ứng với hai alen khác nhau. Như vậy trong nhóm A thực ra có hai nhóm là A1 và A2 và nhóm AB cũng có hai loại là A1B và A2B.

Hồng cầu A1 bị ngưng kết mạnh với kháng thể chống A trong huyết thanh người nhóm B hay 0, ngoài ra cũng bị ngưng kết với chất chiết xuất từ đậu Dolichos biílorus.

Hồng cầu A2 phản ứng kém hơn với kháng thể chống A trong huyết thanh người nhóm B và nhóm O. Chúng không bị ngưng kết với chất chiết xuất từ đậu Dolichos biflorus nhưng lại bị ngưng kết do kháng thể chống H.

Người nhóm máu A2 và A2B có thể có kháng thể chống A1 tự nhiên song tỷ lệ thấp (1% với Ao và 25% với A2B) và hiệu giá thấp, nhưng khi nhận máu A1 có thể tạo miễn dịch và gây tai biến nếu truyền tiếp máu A1 lần sau.

Các kiểu hình A yếu". Bên cạnh A1 và A2 người ta thấy một sốngười có hồng cầu thể hiện kháng nguyên A “yếu” vì ngưng kết yếu với kháng thể chống A.

A3: Tần suất thấp (0,06% ở châu Âu). Hồng cầu ngưng kết một phần với kháng thể chống A của người B và o. Trong huyết thanh ngoài kháng thể chống B còn có thể thấy kháng thể chống A1, trong chất tiết (nước bọt) cũng có kháng nguyên A.

Ax: Tần suất thấp. Hồng cầu phản ứng yếu hoặc không phản ứng với kháng thể chống A của người nhóm B, phản ứng rõ hơn với chống A của người O. Nghiệm pháp cố định và tách với chống A dương tính. Trong huyết thành thường gặp kháng thể chống A1.

Aend: Hồng cầu ngưng kết chậm với chống A và thành đám nhỏ, nhiều hồng cầu tự do. Sự phân bố vị trí kháng nguyên trên hồng cầu không đều, từ 0 - 200.000; trong dịch tiết không có chất A.

Am: Hồng cầu không bị ngưng kết bởi kháng thể chống A. Trong huyết thanh không có kháng thể chống A; số vị trí kháng nguyên A trên hồng cầu từ 200 - 1900. Phương pháp xác định duy nhất là sử dụng kỹ thuật cố định và tách với kháng thể chống A.

Các biến tướng yếu của kháng nguyên B

B3: Hồng cầu ngưng kết rất chậm với kháng thể chống B, trong 3 phút cho hình ảnh quần thể kép điển hình. Huyết thanh không có chống B. Trong nước bọt của người tiết có chất B.

Bm: Nghiệm pháp cố định và tách với chống B dương tính rõ. Không có chống B trong huyết thanh. Có chất B và H trong dịch tiết.

Bel: Nghiệm pháp cố định và tách với chống B dương tính vừa. Trong huyết thanh có thể có chống B yếu. Trong dịch tiết chỉ có chất H.

Kháng nguyên H và hệ Hh, kiểu hình Bombay

Nhóm O được xác định là không có kháng nguyên A và B trên bê mặt hồng cầu. Nhưng trong thực tế có nhiều chất ở động vật và thực vật làm ngưng kết hồng cầu nhóm o, kháng nguyên gây ngưng kết là kháng nguyên H.

Năm 1952, tại Bombay, Bhende phát hiện người có nhóm máu lạ là: hồng cầu không bị ngưng kết với các kháng thể chống A, B, H, trong huyết thanh có kháng thế chống A, B, H, làm ngưng kết hồng cầu tất cả các nhóm kể cả nhóm O.

Đến nay, người ta biết rằng kháng nguyên H là tiền thân của kháng nguyên A và B. Kháng nguyên H không chỉ có mặt riêng ở nhóm O mà cả ở nhóm A, B, AB nhưng số VỊ tri kháng nguyên không đều và phụ thuộc vào kiểu hình ABO, nên hệ ABO còn gọi hệ ABH.

Sự có mặt kháng nguyên H là do hệ thống gen Hh, đó là hệ thống độc lập với ABO, người nhóm Bombay là có kiểu gen hh. Người nhóm O có gen H nên có kháng nguyên H, nhưng không có gen A, gen B nên không chuyển chất H thành kháng nguyên A, kháng nguyên B được.

Sự phát triển và biến đổi kháng nguyên A,B,H trong cuộc sống

- Phát triển và phân bố.

+ Kháng nguyên A, B, H có mặt ở phôi thai 37 ngày và thể hiện đầy đủ ở 3 tuổi.

+ Những kháng nguyên này gặp trong nhiều tổ chức của cơ thể và tự nhiên. Trừ các tế bào thần kinh, xương, võng mạc còn các tế bào khác: tiếu cầu, bạch cầu, biểu bì... tuyến tiêu hóa đều mang kháng nguyên A, B, H ứng với hồng cầu.

- Biến đổi trong cuộc sống.

Tính chất kháng nguyên là ổn định. Tuy nhiên người ta thấy kháng nguyên A yếu đi ở những người già. Trong một số trường hợp bệnh lý như một số lơ xê mi cấp, thiếu máu không phục hồi, u lympho thì có hiện tượng hồng cầu A mất tính ngưng kết với kháng thể chống A của người nhóm B và o, tuy nhiên nghiệm pháp cố định và tách vẫn dương tính.

Trường hợp bệnh lơ xê mi có biến động kháng nguyên thì khi lui bệnh sẽ kém phục hồi tính kháng nguyên, khi tái phát kháng nguyên lại biến động. Điều này chưa giải thích được vì: không phải tất cả lơ xê mi đều có biến động kháng nguyên A,B,H và các hệ thống khác không bị ảnh hưởng.

Những kháng nguyên B thu hoạch được: người ta thấy một số trường hợp có hiện tượng “nhiễm” kháng nguyên B, thường gặp ở bệnh nhân bị ung thư đại tràng, trực tràng, cổ tử cung, tiền liệt tuyến, viêm đường ruột hoại tử, những bệnh có vi khuẩn đặc biệt là Escherichia Coli 0-86 phát triển.

Người ta cho rằng vi khuẩn sinh ra men khử N. acetyl tác động lên kháng nguyên A làm mất gốc N-acetyl và kháng nguyên A này trở nên nhạy cảm với kháng thể chống B.

- Các vị trí kháng nguyên trên hồng cầu.

Người ta thấy tùy theo các nhóm máu, tùy tuổi mà số lượng các vị trí kháng nguyên trên hồng cầu có khác nhau. Theo nghiên cứu của Economidou năm 1967 thì:

+ Với kháng nguyên A:

Hồng cầu người lớn nhóm A, có từ 810.000 - 1.170.000 vị trí kháng nguyên A.

Hồng cầu A1 trẻ sơ sinh: 250.000 - 370.000 vị trí.

Hồng cầu A2 người lớn: 240.000 - 290.000 vị trí.

Hồng cầu A1 cuống rau: 140.000 vị trí.

Hồng cầu A1B người lớn: 460.000 - 850.000 vị trí.

Hồng cầu A1B cuống rau: 220.000 vị trí.

Hồng cầu A2B trẻ sơ sinh: 120.000 vị trí.

+ Với kháng nguyên B

Hồng cầu người lớn nhóm B có 610.000 - 830.000 vị trí kháng nguyên B.

Hồng cầu người lớn nhóm A1B có 310.000 - 560.000 vị trí kháng nguyên B.

+ Với kháng nguyên H: Vị trí kháng nguyên H nhiều nhất ở nhóm o, giảm hơn ở các nhóm A biến tướng và ít ở hồng cầu A1, A^, B (có thể biểu thị tỷ lệ các kháng nguyên trên hồng cầu ở các dưới nhóm A theo hình).

 Sơ đồ thể hiện tỷ lệ kháng nguyên A và H trên các hồng cầu

Hình. Sơ đồ thể hiện tỷ lệ kháng nguyên A và H trên các hồng cầu

Kháng nguyên hòa tan trong nước

Người ta thấy khoảng 80% người có các chất kháng nguyên hòa tan trong nước bọt tương ứng với kháng nguyên hệ ABH trên màng hồng cầu: (kháng nguyên A và H ở người nhóm A; kháng nguyên B và H ở người nhóm B; kháng nguyên A, B và H ở người nhóm AB, kháng nguyên H ở người nhóm O). Các kháng nguyên này bị hút bởi các kháng thể tương ứng.

Kháng nguyên hòa tan này còn phát hiện được ở huyết tương, huyết thanh, tinh dịch, nước tiểu và các dịch tiết đặc biệt là sữa. Người ta chứng minh tế bào niêm mạc tổng hợp và tiết ra các chất kháng nguyên này. Những người có chất kháng nguyên hòa tan trong dịch tiết gọi là những người tiết. Khoảng 20% người còn lại không có các chất kháng nguyên tương ứng trên hồng cầu ở trong dịch tiết gọi là người không tiết.

Kháng thể hệ ABO

Kháng thể tự nhiên

Do đặc điểm của hệ nhóm máu ABO là trong huyết thanh có mặt các kháng thể tương ứng với các kháng nguyên vắng mặt trên hồng cầu, cho nên có:

Kháng thể chống A ở người nhóm B.

Kháng thể chống B ở người nhóm A.

Kháng thể chống A và chống B ở người nhóm O.

Kháng thể chống A, chống B, chống H ở người nhóm Bombay.

Ngoài ra còn cồ chống A1 ở người A2 (1%) và A2B (« 25%). Đó là các kháng thể tự nhiên tức là khi sinh ra đã có, có đặc điểm là các IgM không qua được màng rau, thường gây ngưng kết và không làm vỡ hồng cầu nêu hồng cầu được pha loãng, nhiệt độ thích hợp cho hoạt động là 4°c, bị trung hòa khi đun nóng 70°c, bị hút bởi các chất A, B hòa tan. Hiệu giá kháng thể chống A và B ở người nhóm 0 thường cao hơn hiệu giá chống A ở người nhóm B hoặc chổng B ở người nhóm A. Ngoài huyết thanh ra, kháng thể còn có mặt ở sữa, nước báng, nưốc bọt, nưóc mắt.

Quá trình xuất hiện và tiến triển:

Các kháng thể chống A, chống B là tự nhiên tức là không qua một sự miễn dịch cụ thể nào. Người ta cho rằng trong thiên nhiên có nhiều chất có “tính đặc hiệu” A, B, H (màng hồng cầu, màng vi khuẩn, thức ăn...) và xâm nhập vào cơ thể từ những ngày đầu của bào thai khiến cơ thể tạo kháng thể tương ứng.

Kháng thể tự nhiên xuất hiện sau khi sinh và tăng dần hiệu giá, đạt cực đại vào 5-10 tuổi, ổn định và đến tuổi già thì giảm dần.

Kháng thể miễn dịch

Điều kiện xuất hiện:

Kháng thể miễn dịch xuất hiện do một sự kích thích miễn dịch; các điều kiện kích thích miễn dịch:

Miễn dịch đồng loài: xuất hiện do bất đồng nhóm máu giữa mẹ và con; hồng cầu con mang kháng nguyên mà người mẹ không có, khi chuyển dạ, một ít hồng cầu con sang máu mẹ gây đáp ứng miễn dịch ở mẹ.

Cũng có thể do truyền máu sai nhóm ví dụ truyền hồng cầu A, B hay AB cho người nhóm o. Kháng thể miễn dịch xuất hiện 8 - 15 ngày sau khi bị kích thích.

Miễn dịch khác loài: khá phổ biến như đã nêu trên, khi tiếp xúc với các sinh phẩm nguồn gốc động vật, các chất chiết từ dạ dày lợn, các huyết thanh (kháng bạch hầu, uôh ván) từ ngựa (giàu chất A) cơ thể sẽ sinh kháng thể miễn dịch.

Các kháng thể miễn dịch (nhất là chống A) thường gặp ở người nhóm 0, những người này có hiệu giá kháng thể cao hơn nhiều nên nếu không cẩn thận phát hiện mà truyền cho người nhóm A sẽ gây nguy hiểm. Những người nhóm o đó gọi là người cho nguy hiểm, không thể là người cho máu phổ thông.

Tính chất của kháng thể miễn dịch chổng A và chống B.

Bản chất là IgG, qua được hàng rào rau thai.

Có thể kết hợp bổ thể và gây tan máu.

Hoạt động tốt ở 37°c, không bị huỷ ở 70°c, khó bị trung hòa bởi các chất kháng nguyên hòa tan.

Có thể tóm tắt đặc điểm kháng thể tự nhiên và miễn dịch theo bảng.

So sánh đặc điểm kháng thể tự nhiên và kháng thể miễn dịch chống A và chống B 

Bảng. So sánh đặc điểm kháng thể tự nhiên và kháng thể miễn dịch chống A và chống B

Nhũng chất giống kháng thể

Những protein cấu trúc đơn giản của thực vật có khả năng làm ngưng kết hồng cầu gọi là các lectin:

Chất chống A1 từ đậu Dolichos biflorus: làm ngưng kết rất mạnh hồng cầu A1 và A1B, ngưng kết rất yếu hồng cầu A2 và không ngưng kết hồng cầu A2B, không phản ứng với hồng cầu B và O.

Chất chống H lấy từ cây Ulex europoeus, ngày nay lấy từ huyết thanh một loại lươn nước lợ, chất này gây ngưng kết rất mạnh hồng cầu O.

Hệ nhóm máu Rh

Lịch sử phát hiện

Năm 1940, Landsteiner và Wiener đã tiêm máu của khỉ Macacus Rhesus cho thỏ và thu hoạch được kháng thể chổng hồng cầu khỉ. Kháng thể này cũng phản ứng với hồng cầu của khoảng 80% người da trắng. Những người có phản ứng gọi là người nhóm Rh dương, những người không có phản ứng (không có kháng nguyên) gọi là người Rh âm.

Cũng năm 1940 Wiener và Peter thấy mọt số người Rh âm có sinh kháng thể chống Rh dương gây phản ứng truyền máu khi truyền cùng nhóm máu ABO

Sau này người ta thấy kháng thể chống hồng cầu người của thỏ khác với kháng thể chống Rh của người. Tuy nhiên người ta vẫn giữ tên kháng thể của người là kháng thể chống Rh.

Kháng nguyên Rh và các danh pháp

Năm 1943 người ta đã phát hiện bốn kháng thể chống lại bốn kháng nguyên thuộc hệ Rh, trong đó có hai kháng nguyên liên quan (vì một cá thể luôn có ít nhất một trong hai kháng nguyên này) được đặt tên là c và c còn hai kháng nguyên khác không ĩiên quan, được đặt tên là D và E.

Năm 1945 Mourant phát hiện kháng thể chống e, e là kháng nguyên liên quan với E.

Danh pháp của Ficher- Race (DCE)

Ngay từ năm 1944 sau khi nghiên cứu 4 kháng nguyên, Ficher đã giả thiết hệ Rh do phức hợp 3 gen liên kết chặt chẽ với nhau trong đó mỗi gen có các alen. Đó là D và d là alen của nhau.

Alen của C là ĉ.

Alen của E là e: Trình tự locus của hệ phức hợp gen này là DCE, các locus này nằm liền kê nhau, liên kết chặt chẽ và di truyền cùng với nhau. Ví dụ bô có phức hợp Dce thì con, cháu cũng có phức hợp này.

Sau phát hiện của Mourant thì giả thuyết này càng được ủng hộ, tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa tìm thấy kháng nguyên d và kháng thể chống d.

Danh pháp của Winer

Wiener cho rằng hệ Rh là hệ có rất nhiều alen, mỗi alen lại cho một phức hợp các yếu tố kháng nguyên. Ví dụ alen Rh1 sẽ tạo ra kháng nguyên phức hợp là D,c,e.

Tuy gọi khác nhau nhưng có thể liên hệ giữa hai loại danh pháp (bảng).

So sánh danh pháp Ficher - Race với danh pháp của VViener 

Bảng. So sánh danh pháp Ficher - Race với danh pháp của Wiener

Các kháng nguyên Rh và ý nghĩa trong y học

Kháng nguyên chính:

Như đã trình bày ở trên, ta có 5 kháng nguyên chính của hệ Rh đó là kháng nguyên D, kháng nguyên c và c, kháng nguyên E và e. Người có kháng nguyên D được gọi là người Rh (+), người không có kháng nguyên D được gọi là người Rh (-). Một người bình thường có thể có D hoặc không, có thể có E hoặc e hoặc cả hai, cũng có thể có c hoặc c hoặc cả hai.

Khi người thiếu một kháng nguyên được nhận máu có kháng nguyên đó, thì có thể sẽ tạo miễn dịch và gây tai biến truyền máu lần sau. Trong số năm kháng nguyên trên thì kháng nguyên D có ý nghĩa nhất vì có khoảng 50% người Rh (-) nhận máu Rh (+) sẽ sinh kháng thể chống Rh. Kháng thể này thường là IgG nhưng có thể ngưng kết cả trong môi trường nước muối, phản ứng sinh kháng thể tăng lên nếu tiếp tục được tiếp xúc kháng nguyên D.

Kháng nguyên D còn có vai trò trong bệnh tan máu trẻ sơ sinh. Người mẹ Rh (-) mang thai Rh (+) có thể sinh kháng thể chống Rh do khi chuyển dạ có một ít hồng cầu máu con vào tuần hoàn mẹ kích thích tạo kháng thể và sẽ gây tan máu cho thai Rh (+) lần sau.

Các kháng nguyên khác cũng có cơ chế tương tự nhưng ý nghĩa lâm sàng ít hơn do kháng thể yếu hơn và ít xuất hiện.

Các kháng nguyên khác:

Ngoài 5 kháng nguyên trên, đến nay người ta phát hiện rất nhiều kháng nguyên Rh.

- Kháng nguyên Du và kháng nguyên D từng phần

Người ta thấy người Du có kháng nguyên D nhưng hồng cầu không ngưng kết với tất cả chống D, trong huyết thanh có thể có kháng thể chống D. Hiện nay người ta biết Du là một biến tướng yếu của D hay còn gọi là D không đầy đủ và có nhiều Du với mức không đầy đủ khác nhau.

Về cơ chế di truyền người ta thấy Du xuất hiện là do sự tương tác về di truyền ví dụ kiểu gen DCe/dCe có thể tạo Du nhưng khi di truyền cho con DCe/Dce thì con không có Du.

Trong thực hành truyền máu nếu người Du cho máu thì coi là Rh (+), nếu người Du nhận máu thì coi là Rh (-).

- Kháng nguyên D từng phần

Người ta cho rằng kháng nguyên D có nhiều phần, có ngưồi đủ các phần, có người thiếu một hoặc một số phần. Trong số những người thiếu có thể có người sẽ sinh kháng thể chống lại kháng nguyên D đầy đủ, vì vậy trong thực hành truyền máu coi D từng phần như Du

- Kháng nguyên Cu, là sản phẩm của một biến tướng của alen c và ế. Khi mang thai con có Cu, người mẹ không có Cu có thể tạo kháng thể chống Cu và gây thiếu máu vàng da trẻ sơ sinh.

Ngoài ra còn các biến tướng khác của c, của E.

Kháng nguyên phức hợp: người ta thấy khi hai gen gần nhau, có thể liên kết tạo nên một kháng nguyên. Ví dụ người có kiểu gen Dce ngoài các kháng nguyên D,c,e còn có kháng nguyên f, kháng nguyên f chỉ có mặt khi 2 gen c và e đi với nhau.

Tương tự một số kháng nguyên phức hợp khác đã được phát hiện, như kháng nguyên G ở người có D và c.

Tần suất một số nhóm Rh

Theo các nghiên cứu thì ở châu Âu tần suất các tổ hợp thường gặp là Dce, dce, DcE, ở Trung Quốc thường gặp Dce, DcE, rồi mới đến dce, ở Việt Nam thường gặp các kiểu genotyp, DCCee rồi Dccee.

Kháng thể hệ Rh

Kháng thể tự nhiên: rất hiếm gặp, người ta đã gặp một số người có kháng thể IgM chống E, hoạt động ở môi trường nước muối và nhiệt độ lạnh. Tỷ lệ kháng thể tự nhiên chống E là rất thấp.

Các kháng thể tự nhiên chống D là rất hiêm

Kháng thể miễn dịch:

Hầu hết là IgG, ngoại trừ một tỷ lệ thấp kháng thể chống D miễn dịch là IgM.

Kháng thể chống D là thường gặp sau truyền máu Rh dương cho Rh âm hoặc người mẹ Rh âm có con Rh dương.

Người ta thấy những người Rh âm nhận máu Rh dương thì có 50% người sinh kháng thể chống. D.

Như đã nói ở trên, phần lón chống D là IgG, tuy nhiên có thể làm ngưng kết hồng cầu trong môi trường muối và gây tai biến truyền máu nặng.

Như vậy khi truyền máu cần định nhóm Rh và chỉ truyền Rh dương cho người Rh dương.

Các kháng thể khác như chống G, chống c là khá thường gặp, ở Việt Nam thường gặp chống c, do đó cần lưu ý khi truyền máu nhiều lần.

Các hệ thống nhóm máu khác

Ngoài hai hệ thống có vai trò rất quan trọng trong truyền máu là ABO và Rh, người ta còn phát hiện hàng chục hệ nhóm máu, mỗi hệ lại có rất nhiều kháng nguyên khác nhau. Cơ thể thiếu một kháng nguyên sẽ sinh kháng thể tương ứng nếu truyền máu có kháng nguyên đó và lần truyền máu nhắc lại sau sẽ gây phản ứng. Phát hiện các kháng thể này thường bằng nghiệm pháp Coombs hay thực hiện phản ứng trong môi trường albumin (keo). Sau đây chỉ nêu tên và kháng nguyên của một số hệ thống.

Hệ thống nhóm máu Kell

Kháng nguyên

Hệ thống Kell có rất nhiều kháng nguyên, những kháng nguyên này chỉ có mặt trên hồng cầu.

Kháng nguyên K và k: K và k là hai kháng nguyên do hai alen K và k cùng trội thể hiện, tần suất gen k rất cao.

Kháng nguyên Kpa và Kpb, Kpc: là 3 kháng nguyên do các gen cùng ở một locus (các alen) trong đó Kpb phổ biến nhất (« 98%) ở người da trắng, và gần 100% người da đen, Kpa chiếm khoảng 2% người da trắng, Kpc vô cùng hiếm.

Các kháng nguyên Kp có liên quan đến thể hiện của gen k vì vậy người ta coi cùng hệ thống với Kell (K,k) (locus Kp gần với locus K,k).

Ngoài ra còn nhiều kháng nguyên khác như Jsa, Jsb, kn... người ta cũng đã gặp những người phenotyp không (không có kháng nguyên hệ kell) tuy nhiên rất hiếm.

Kháng thể

Kháng thể tự nhiên chống K, k đã được phát hiện tuy nhiên rất hiếm gặp.

Kháng thể miễn dịch chống K rất thường gặp (chỉ sau ABO và Rh).

Người ta thấy kháng thể miễn dịch chống K rất có ý nghĩa trong truyền máu vì phản ứng rất mạnh với hồng cầu có kháng nguyên K và gây tan máu. Ngoài ra kháng thể miễn dịch chống K còn là nguyên nhân gây tan máu trẻ sơ sinh do bất đồng mẹ con.

Hệ thống Levvis

Kháng nguyên

Các kháng nguyền hệ Lewis là Lea và Leb cũng như hoạt động của gen Le, le đã được nêu trong phần nhóm máu ABO

Kháng thể

Kháng thể chống Lea và Leb thường là kháng thể tự nhiên IgM, hoạt động ở 37°, thường phải dùng nghiệm pháp Coombs gián tiếp để phát hiện. Kháng thể chống Lea chỉ xuất hiện ở người tiết ABH và không có Lea, Leb tức là người le (a-b-).

Kháng thể chống Leb thường xuất hiện cùng chống H (gặp ở người nhóm máu Al).

Dù các kháng thể hệ Lewis là IgM, tự nhiên gắn bổ thể và gây tan máu nhưng thường hiệu giá thấp nên ít gây tai biến truyền máu, hơn nữa nếu truyền máu toàn phần có kháng nguyên Lea hay Leb lần đầu tiên cho người có kháng thể tự nhiên tương ứng thì kháng thể vốn đã ít sẽ bị kháng nguyên Lewis hòa tan trong huyết tương truyền vào trung hòa do đó hồng cầu không bị phá huỷ. Chính những hồng cầu có kháng nguyên Lewis này sẽ trở nên hồng cầu Le (a-b-) sau vài ngày. Điều này cũng giúp cho các hồng cầu truyền vào sẽ tồn tại dù sau đó kháng thể miễn dịch xuất hiện và tăng hiệu giá.

Tuy nhiên nếu truyền máu có kháng nguyên Lewis cho người đã có kháng thể miễn dịch (do truyền máu hoặc chửa đẻ) thì nguy cơ tai biến sẽ xảy ra.

Hệ thống p

Hệ thống nhóm máu p được Landsteiner và Levine mô tả từ 1927, nhưng là một hệ phức tạp nên ngày càng có các phát hiện bổ sung về bản chất, di truyền của kháng nguyên, đặc điểm kháng thể. Hệ nhóm p được đặc trưng bởi 3 kháng nguyên là Pl, p, pk

Kháng nguyên

Kháng nguyên p là phổ biến, chiếm gần 100% người da đen và da trắng, kháng nguyên Pl có mặt trên hồng cầu ở 79% người da trắng, 94% người da đen; kháng nguyên pk rất hiếm gặp

Dựa vào sự có mặt của các kháng nguyên p, Pl và pk mà người ta chia ra năm nhóm sau:

Nhóm Pl, có kháng nguyên p, P1.

Nhóm P2, có kháng nguyên p.

Nhóm P1k, có kháng nguyên P1, pk.

Nhóm p2 có kháng nguyên pk.

Nhóm p không có kháng nguyên hệ p.

Có thể tóm tắt theo bảng đặc điểm các nhóm máu hệ thống p như sau (bảng)

 Đặc điểm các hệ thống nhóm máu p

Bảng. Đặc điểm các hệ thống nhóm máu p

Kháng thể hệ thống p

Ngoài kháng thể chống p, chống Pj, chống pk người ta còn gặp kháng thể chống pIk phản ứng với hồng cầu có ít nhất một trong các kháng nguyên P,P1,P\ kháng thể này gặp ở tất cả những người nhóm pk, thường là IgM.

Kháng thể chống Pl thường gặp ở người P2, là IgM hoạt động ở nhiệt độ lạnh.

Kháng thể chống p, có thể gặp ở người nhóm pk mặc dù hiếm nhưng cũng có thể gây tan máu mạnh.

Ý nghĩa trong truyền máu

Kháng thể chống p hiếm gặp nhưng cũng có thể gây tai biến truyền máu vì phản ứng mạnh

Kháng thể chống P1 có thể gây phản ứng truyền máu nhất là khi gắn bổ thể. Tuy nhiên nhiều trường hợp truyền máu P1 dương cho bệnh nhân có kháng thể chống P1 lạnh vẫn không phản ứng

Kháng thể chống P,P1,Pk hiếm gặp nhưng khi có mặt có thể gây tai biến truyền máu, cần phải hết sức chú ý, kháng thể này cũng có thể gây tan máu trẻ sơ sinh.

Kháng thể chống P1 không gây tan máu trẻ sơ sinh do bất đồng mẹ con.

Hệ nhóm máu li

Kháng nguyên

Hệ nhóm máu li gồm hai kháng nguyên chính là I và i

Điểm đặc biệt của hệ thống li là sự thay đổi kháng nguyên trong quá trình phát triển cá thể. Lúc mới sinh, hồng cầu trẻ sơ sinh có kháng nguyên i, kháng nguyên i giảm dần và kháng nguyên I tăng dần để đến 18 tháng tuổi thì hồng cầu mang kháng nguyên I và kháng nguyên I tồn tại suốt đời.

Người nhóm i là người đến tuổi trưởng thành mà hồng cầu không có hoặc có rất ít kháng nguyên I. Tỷ lệ người nhóm i rất hiếm gặp.

Cho đến nay người ta đã gặp những người I-, i- gọi là người không có nhóm li.

Kháng thể

Kháng thể chống I là IgM, gặp ở hầu hết người nhóm i, không có vai trò trong bệnh tan máu trẻ sơ sinh.

Kháng thể tự miễn chống I là kháng thể phổ biến nhất gây ra thiếu máu tan máu tự miễn, là kháng thể kết hợp bổ thể. Kháng thể chống I thường tăng hiệu giá khi nhiễm trùng nhất là nhiễm phế cầu.

Kháng thể chống i: thường là IgM, cũng có thể IgG, có thể gây tan máu trẻ sơ sinh.

Hệ thống nhóm máu Duffy

Kháng nguyên

Hai kháng nguyên cơ bản của hệ thống Duffy là Fya và Fyb. Đây là hai kháng nguyên do hai alen Fya và Fyb đồng trội tạo nên, vì vậy có thể có các kiểu hình là Fy (a+,b-), Fy (a+b+) Fy (a-b+, Fy (a-b-).

Ngoài ra người ta còn thấy có các kháng nguyên Fy3, Fy4, Fy5, Fy6

Người ta cho rằng hai locus liền kề quy định các kháng nguyên hệ Duffy, một locus gồm các alen Fya, Fyb, Fyx, Fy trong đó alen Fyb, Fy* đều tạo kháng nguyên Fyb, nhưng Fyx tạo Fyb yếu, gen Fy là gen câm. Một locus khác gồm các alen Fy3, Fy4, Fy5, Fy6. Người ta thấy có mối liên kết giữa hai locus ví dụ người Fy (a-b-) thường có Fy3, Fy4.

Tần suất các kháng nguyên Duffy liên quan tới chủng tộc: trong khi ở người da trắng rất hiếm Fy (a-b-) thì hầu hết người da đen là Fy (a-b-). Trên 80% người Việt Nam là Fy (a+b-).

Kháng thể

Kháng thể chống Fya và chống Fyb là kháng thể miễn dịch thường là IgG, phát hiện bằng nghiệm pháp Coombs, kháng thể chống Fyb xuất hiện ít hơn nhiều so với kháng thể chong Fya.

Kháng thể chống Fya và chống Fyb có thể là nguyên nhân gây tai biến truyền máu và tan máu trẻ sơ sinh.

Hệ thống nhóm máu Kidd

Kháng nguyên

Hệ thống nhóm máu KiDD gồm hai kháng nguyên chính là JKa và JKb do hai') alen JKa và JKb đồng trội quyết định. Các kiểu hình có thể là: JK (a+b-), JK (a+b+), JK (a-b+), JK (a-b-), trong đó rất hiếm gặp JK (a-b-).

Khả năng miễn dịch của JKa và JKb thấp, nhất là JKb.

Kháng thể

Hầu hết là kháng thể miễn dịch và hêt khi không còn kích thích kháng nguyên, phát hiện bằng nghiệm pháp Coombs gián tiêp, có thể là nguyên nhân gây tan máu trong truyền máu không phù hợp Kidd nhưng thường xảy ra muộn.

Các hệ nhóm máu khác

Nhiều hệ khác như: MNSs gồm các kháng nguyên M, N, s, s do các gen M, N, S, s đồng trội quy định, kháng thể này hiếm gặp.

Hệ Lutheran gồm nhiều kháng nguyên, trong đó chú ý kháng nguyên Lua và Lub có thể gây tan biến truyền máu dù rằng rất hiếm gặp.

Hệ Diego, Dombrock... và nhiều hệ khác, có vai trò ít hơn trong thực hành truyền máu.

Bài viết cùng chuyên mục

Truyền máu tự thân và ứng dụng

Phải kiểm tra các thành phần bạch cầu, hồng cầu ly giải trong đơn vị máu, tuy nó không có nguy hại lớn về lâm sàng như truyền máu đồng loài, nhưng khi có hàm lượng cao thì truyền cho người bệnh cũng có thể xảy ra tai biến.

Phân loại và chẩn đoán hội chứng tăng sinh Lympho mạn ác tính

Xét nghiệm miễn dịch: CD3, CD4, CD34, CD19, CD20, Xét nghiệm tế bào di truyền: biến đổi nhiễm sắc thể, Xét nghiệm kháng nguyên gây ung thư.

Bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu

Giảm tiểu cầu miễn dịch ở trẻ sơ sinh là do bất đồng kháng nguyên HPA giữa mẹ và con, gây miễn dịch ở mẹ và giảm tiểu cầu ở con. Hầu hết các trường hợp được chẩn đoán sau đẻ.

Chuyển hóa trong các tế bào máu

Khi thiếu ATP bơm natri không hoạt động do đó Na+ và nước chỉ có vào mà không có ra, làm cho hồng cầu trương to và vỡ.

Các chế phẩm máu và sử dụng lâm sàng

Truyền máu ở trẻ sơ sinh mất máu cấp nên sử dụng máu toàn phần bảo quản dưới 5 ngày để tránh những nguy cơ rối loạn điện giải, rối loạn chuyển hóa do máu bảo quản dài ngày và đảm bảo tốt chức năng vận chuyển oxy của hồng cầu truyền vào.

Kỹ thuật phát hiện HLA và ứng dụng lâm sàng

Sử dụng xác định các antigen thuộc HLA-A, B, c, DR, DQ. Tuy nhiên HLA-DR kém nhậy đối với phản ứng độc tế bào, do vậy nhiều nước đã dùng kỹ thuật PCR để xác định kháng nguyên thuộc hệ HLA-DR.

Tổng hợp huyết sắc tố (Hb)

Mỗi loại globin là sản phẩm của một gen, nên cũng có 2 họ gen globin (hình) đó là họ gen a và họ gen không α. Trong các nguyên hồng cầu, tổng hợp globin cũng qua các giai đoạn mã hoá, chín ARN, thông tin và phiên mã.

Các xét nghiệm và ý nghĩa thực tiễn đánh giá sinh lý sinh hóa máu

Chuỗi phản ứng men tác động lên chuyển hóa acid arachidonic tạo ra nhiều chất gây tăng thấm mạch, đồng thời tác động lên hệ thống đông máu gây rối loạn đông máu, đông máu rải rác trong lòng mạch, chảy máu.

Xơ tủy nguyên phát (myelofibrosis)

Nhìn chung ban đầu bệnh có biểu hiện là tăng sinh ở tủy xương với tăng số lượng tế bào, sau đó là giảm sinh tủy với giảm ba dòng tế bào máu ngoại vi.

Phân loại thiếu máu

Thiếu máu nhược sắc giảm siderophilin gặp trong viêm gan gây thiếu siderophilin không vận chuyển được sắt đến nơi tạo hồng cầu.

Ghép tủy tế bào nguồn

Ghép tuỷ tế bào nguồn, nghĩa là truyền tế bào nguồn vào máu như truyền máu, nhưng không dùng màng lọc máu, truyền chậm và dùng kim luồn vào tĩnh mạch trung tâm.

Các cytokin và điều hòa tạo máu

Các cytokin có tác dụng điều hoà hoạt động và phát triển tế bào đích, do đó chúng đang được sử dụng trên lâm sàng để điều trị bệnh nhất là bệnh suy giảm miễn dịch.

Tăng đông và huyết khối

Một số tác giả gọi tăng đông là tình trạng tiền huyết khối. Tuy nhiên cần lưu ý răng huyêt khối thường ít khi do một nguyên nhân đơn độc gây nên mà thường là hậu quả của sự kết hợp của một số những rối loạn và yếu tố nguy cơ.

Bất thường vật chất di truyền và bệnh máu

Có thể phân chia bất thường vật chất di truyền theo nguyên nhân bẩm sinh hay măc phải, hoặc phân chia theo mức độ tổn thương: bất thường mức độ nhiễm sắc thể và mức độ gen.

Nguồn gốc phát triển, cấu trúc và chức năng của tiểu cầu

Bình thường tiểu cầu không dính vào thành mạch, có lẽ do một chất có tác dụng ức chế dính của tiểu cầu - chất đó có thể là prostaglandin. Tuy nhiên khi có đứt mạch máu thì lập tức tiểu cầu được hoạt hóa và dính vào nơi tổn thương.

Hội chứng mất sợi huyết (Đông máu rải rác trong lòng mạch)

Phần lớn các tác giả cho rằng đông máu rải rác có thể sinh ra tiêu sợi huyết phản ứng, thứ phát và nhấn mạnh rằng hai cơ chế này có thể song song tồn tại với tỷ lệ khác nhau.

Huyết sắc tố bất thường (tổng hợp chuỗi globin bất thường)

Tùy theo sự thay đổi mà có các biểu hiện khác nhau, rất nhiều loại thay đổi được phát hiện, Tên các huyết sắc tố bất thường được đặt theo địa dư phát hiện nhưng có tên thông nhất.

Đảm bảo chất lượng trong xét nghiệm huyết học truyền máu

Công tác truyền máu được đảm bảo chất lượng có nghĩa là máu và thành phẩm truyền cho bệnh nhân đáp ứng tốt nhất nhu cầu điều trị và hạn chế đến mức thấp nhất các kết quả không mong muốn.

Phân loại và chẩn đoán hội chứng tăng sinh tủy mạn ác tính

Tuỷ đồ chẩn đoán tế bào học, Sinh thiết: chẩn đoán tổ chức tuỷ, Các xét nghiệm đặc trưng riêng cho từng bệnh.

Tai biến do truyền máu và cách xử trí

Dự phòng với những người có cơ địa dị ứng và có nổi mề đay nhiều lần cần loại bỏ huyết tương khi truyền máu để loại trừ các dị nguyên hòa tan.

Đa u tủy xương (Multiple Myeloma)

Bệnh với các biểu hiện bệnh lý: khuyết và loãng xương, giảm sinh tủy, tăng tương bào tại tủy xương, tăng độ nhớt máu, tăng protein đơn dòng, giảm chức năng thận hoặc suy thận.

Bệnh ghép chống chủ do truyền máu

Năm 1991 nhiều tác giả đã mô tả bệnh ghép chống chủ do truyền máu. GVHD trong truyền máu cũng như trong ghép tủy, có thể gặp cả GVHD cấp tính và GVHD mạn tính, cũng gặp ở các bệnh nhân suy giảm miễn dịch mạnh.

Phân loại và chẩn đoán Lơxêmi cấp

Tuỷ đồ, tế bào tăng sinh bất thường, tế bào blast trên 30 phần trăm trong số tế bào có nhân, Sinh thiết, tuỷ tràn ngập tế bào blast, các dòng khác bị chèn ép tổ chức tuỷ bị lấn át.

Miễn dịch trung gian tế bào (cellular mediated immunity)

Các tế bào của các tổ chức và cơ quan bình thường có trên bề mặt kháng nguyên hệ HLA. Đó là những kháng nguyên gây đáp ứng miễn dịch tế bào.

Lâm sàng và xét nghiệm thiếu máu tan máu

Thay đổi cấu trúc xương do tủy xương tăng cường hoạt động, thường chỉ gặp ở trẻ em, đang lúc tuổi phát triển. Hố tủy xương giãn rộng, xương sọ có hình bàn chải.