- Trang chủ
- Sách y học
- Bài giảng giải phẫu bệnh
- Giải phẫu bệnh viêm đại tràng
Giải phẫu bệnh viêm đại tràng
Như đã đề cập trong phần bệnh Crohn của bài trước, bệnh viêm loét đại tràng vô căn có một số đặc điểm chung với bệnh Crohn
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Có nhiều loại viêm của đại tràng do các tác nhân đặc hiệu, xảy ra cùng lúc với viêm ruột non và đã đề cập trong bài ruột non.
Viêm loét đại tràng do amíp
Bệnh lây truyền theo đường tiêu hoá. Bào nang amíp đã trưởng thành theo thức ăn vào dạ dày, qua ruột non rồi từ đoạn cuối hồi tràng đi vào đại tràng. Trong ruột, amíp có thể gây tổn thương hoặc không.
Đại thể:
Các vị trí thường gặp của tổn thương là manh tràng, các góc đại tràng và trực tràng. Tổn thương ban đầu nhỏ cỡ đầu kim. Sau đó, amíp xuyên qua lớp dưới niêm mạc rồi lan tràn tạo thành những vết loét hình cổ chai có bờ vàng nâu nham nhở, có đáy là lớp dưới niêm mạc hoặc lớp cơ.
Vi thể:
Các tổn thương ban đầu chỉ có ít tế bào viêm loại một nhân. Sau đó, do bội nhiễm có nhiều mô bị hoại tử và thấm nhập nhiều bạch cầu đa nhân và có mô hạt viêm ở đáy loét. Amíp có thể di chuyển xuyên qua vách cơ và thanh mạc đại tràng gây viêm phúc mạc và làm đại tràng dính vào các cấu trúc chung quanh. Đôi khi, có thể có khối mô hạt viêm trên vách đại tràng, được gọi là u amíp, có thể gây chẩn đoán nhầm với ung thư. Từ đại tràng, amíp có thể đến gan bằng đường máu gây áp xe gan.
Viêm loét đại tràng vô căn
Như đã đề cập trong phần bệnh Crohn của bài trước, bệnh viêm loét đại tràng vô căn có một số đặc điểm chung với bệnh Crohn. Bệnh có nhiều ở các xứ phương Tây. Ở Hoa Kỳ, Anh, Bắc Âu, xuất độ bệnh khoảng 4-6/100.000 dân. Bệnh ít xảy ra hơn ở Nga, Nhật, các nước Nam Mỹ. Người da trắng có xuất độ bệnh cao hơn người da đen. Giới nữ dễ mắc bệnh hơn giới nam. Bệnh thường khởi đầu ở khoảng tuổi từ 20-25 tuổi, nhưng có thể khởi đầu ở tuổi trẻ hoặc già hơn. Những bệnh nhân vừa bị bệnh viêm loét đại tràng vô căn, vừa bị bệnh viêm dính đốt sống có tần suất cao HLA-B27 (nhưng sự gia tăng này chỉ do bệnh viêm dính đốt sống).
Bệnh thường bắt đầu ở trực tràng hoặc đại tràng sigma và ảnh hưởng dần đến các phần khác của đại tràng. Trong đa số trường hợp, hầu hết các đoạn ruột đều có tổn thương. Nếu chỉ có một phần bị bệnh thì thường là phần nửa bên trái. Phần cuối hồi tràng cũng bị bệnh trong 1/4 các trường hợp do bị ăn lan kiểu tiếp cận.
Tổn thương thay đổi tùy giai đoạn bệnh. Lúc nào cũng có sung huyết với niêm mạc đỏ đậm hoặc đỏ tím và mịn như nhung. Khởi đầu là những vết chợt nhỏ, sau đó, các vết chợt này sâu hơn rồi thành những vết loét rõ ràng dưới dạng những vết loét hằn dọc theo chiều dài đại tràng.
Hiếm trường hợp diễn tiến cấp tính, toàn bộ đại tràng trở nên bở và dễ có xuất huyết.
Lớp cơ bị dày giống như co thắt, cứng, mất một phần hay mất hoàn toàn tính co dãn, làm cho đại tràng ngắn và hẹp lại.
Tổn thương vi thể sớm nhất là áp xe với sự tích tụ nhiều bạch cầu đa nhân trung tính trong các tuyến Lieberkuhn. Các ổ áp xe này hợp lại tạo nên những vết loét.
Viêm đại tràng có màng giả
Là một loại viêm cấp tính của đại tràng, với đặc điểm là có màng giả phủ lên trên lớp niêm mạc bị tổn thương. Bệnh thường gây ra bởi độc tố của vi khuẩn Clostridium difficile, một loại vi khuẩn bình thường có sẵn trong ruột. Màng giả cũng có thể được tạo ra do các tổn thương thiếu máu, hoặc do tình trạng viêm bởi tụ cầu khuẩn, Shigella và đôi khi Candida.
Bệnh thường xuất hiện dưới dạng viêm cấp có tiêu chảy trên các bệnh nhân có tiền căn bệnh ruột mạn tính, nhưng đã dùng các kháng sinh phổ rộng, đặc biệt là Clindamycin và Lincomycin. Vì vậy, đôi khi người ta còn gọi là bệnh viêm đại tràng đi kèm với kháng sinh.
Bệnh cũng có thể có ở những bệnh nhân vừa trải qua phẫu thuật lớn, bệnh nhân tim mạch có thiếu máu, bệnh nhân huyết áp thấp, ngộ độc kim loại nặng, nhiễm khuẩn huyết, urê huyết cao, các u đại tràng gây tắc ruột.
Tổn thương nặng gồm những mảng dính nhau, màu vàng xanh, gồ cao, phân cách nhau bởi những vùng niêm mạc bình thường hoặc bị phù, sung huyết. Nơi bị tổn thương thường nhất là hồi tràng và đại tràng. Màng giả gồm có mucin, fibrin, có mảnh nhân, bạch cầu đa nhân trung tính. Phần niêm mạc bên dưới màng giả có thể bị hoại tử hoàn toàn hoặc một phần.
Viêm đại tràng trong bệnh hột xoài (viêm ruột liễu)
Tổn thương nguyên phát ở phụ nữ thường là tổn thương của cổ tử cung và âm đạo. Tác nhân gây viêm thường theo đường mạch limphô đến các hạch limphô gần trực tràng. Ở đàn ông, tổn thương nguyên phát ở bộ phận sinh dục ngoài nên chỉ có hạch bẹn bị ảnh hưởng. Vì vậy, chỉ ở phụ nữ, tổn thương viêm lan rộng từ các hạch đến trực tràng, gây viêm, hóa sợi, hoá sẹo và làm hẹp lòng trực tràng. Niêm mạc trực tràng có thể bị loét khi phân cứng đi qua nơi hẹp.
Bài viết cùng chuyên mục
Giải phẫu bệnh đại tràng
Trên thực tế lâm sàng, bệnh của đại tràng chiếm tỷ lệ khá cao trong các bệnh được phẫu trị. Ung thư đại tràng là nguyên nhân đứng hàng thứ 2 gây tử vong ở người lớn.
Giải phẫu bệnh loét mạn tính dạ dày
Yếu tố di truyền dự phần quan trọng trong loét tá tràng nhưng không có vai trò quan trọng trong loét dạ dày.
Giải phẫu bệnh viêm não màng não
Ở trẻ em, Haemophilus influenzae là vi khuẩn thường gặp nhất gây viêm màng não; sự phát triển của vắc xin, làm giảm tỷ lệ viêm màng não rất nhiều.
Giải phẫu bệnh tổn thương chảy máu
Chảy máu là tình trạng máu ra khỏi hệ tuần hoàn, có thể (a): khu trú tại một điểm trong cơ thể (b) lan tỏa (thường là biểu hiện của một bệnh hệ thống).
Giải phẫu bệnh tổn thương lấp mạch
Một vật cản lớn trong dòng huyết lưu có thể lấp toàn bộ lòng mạch và gây hiện tượng lấp kín, nhưng một vật cản nhỏ sẽ chỉ làm giảm thiểu lòng mạch và gây hiện tượng lấp hẹp.
Giải phẫu bệnh của tuyến vú
Trong lúc có thai, thay đổi sớm nhất là tuyến vú cứng chắc thêm, nẩy nở các tĩnh mạch dưới da, kèm theo hiện tượng tăng sắc tố ở quầng vú và núm vú.
Giải phẫu bệnh ung thư
Các ung thư thường gặp ở nam giới là ung thư của tuyến tiền liệt, phổi, và đại tràng. Ở nữ giới, các ung thư thường gặp là cổ tử cung, vú, phổi, và đại tràng.
Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và vòng tránh thai
Vòng có chất đồng ít gây ra viêm hơn. Bạch cầu thường chỉ tập trung trong lòng các ống tuyến, có xuất tiết ở bề mặt nội mạc tử cung còn mô đệm nội mạc bình thường.
Giải phẫu bệnh bệnh của miệng và xương hàm
Một loại không thường gặp là u nguyên bào cơ có hạt ở lưỡi, có hình thái giống u cùng tên ở nơi khác, gồm những tế bào to với bào tương có hạt.
Giải phẫu bệnh ung thư di căn đến não
Ung thư di căn não chiếm khoảng một phần tư đến một nửa khối u nội sọ, ở những bệnh nhân nhập viện. Các vị trí hay cho di căn nhất là phổi, vú, da (melanôm), thận, và đường tiêu hóa, chiếm khoảng 80% của tất cả các di căn.
Giải phẫu bệnh tổn thương giả u cổ tử cung
Tổn thương thường gặp ở phụ nữ dùng viên thuốc ngừa thai, hay ở phụ nữ có thai hay sau sanh.
Giải phẫu bệnh bệnh của tế bào nuôi
Về hoá mô miễn dịch, các tế bào nuôi không tiết ra nội tiết tố, các nội tiết tố như HCG và HPL
Giải phẫu bệnh đông máu nội mạch lan tỏa
Nhiễm khuẩn gây tổn thương lan tỏa nội mạc mạchh máu (do virút, vi khuẩn Gram âm, Rickettsia, Aspergillosis, Histoplasmosis, ký sinh trùng sốt rét v.v....).
Giải phẫu bệnh bệnh buồng trứng
Bệnh lý viêm rất hiếm gặp. U có thể sinh ra từ những mô phức tạp của buồng trứng trưởng thành hay của vết tích mô phôi của buồng trứng.
Giải phẫu bệnh ung thư phần mềm
U có nhiều thùy, đặc, 5-10cm hoặc lớn hơn. U thường lan dọc theo màng cân hoặc thớ cơ, vì vậy cho tỷ lệ tái phát cao. Mặt cắt màu xám hoặc trắng và thay đổi tùy theo dạng vi thể.
Giải phẫu bệnh bệnh hô hấp
Carcinôm tế bào nhỏ vào thời điểm được chẩn đoán, thường đã di căn. Ngoài ra, còn có một số loại ung thư khác hiếm gặp như u trung mạc.
Giải phẫu bệnh rối loạn chức năng tử cung
Rối loạn chức năng phổ biến nhất là dứt estrogen trong các chu kỳ kinh nguyệt không phóng noãn
Giải phẫu bệnh viêm lao
Trực khuẩn lao không có ngoại độc tố hoặc nội độc tố nhưng thành phần hóa học cấu tạo vi khuẩn đã tác động gây bệnh trên cơ thể người.
Giải phẫu bệnh dương vật
U có dạng sùi như quả dâu hay như bông cải, thường nằm ở rãnh vòng đầu dương vật, có dạng một hay nhiều nhú. U mềm, màu hồng và có nhiều mạch máu.
Giải phẫu bệnh bệnh thực quản
Thực quản có lớp niêm mạc là thượng mô lát tầng không sừng hoá, đoạn gần tâm vị có tuyến giống tuyến tâm vị. Lớp cơ thực quản có 2 loại: cơ vân ở 1/3 trên và cơ trơn 2/3 dưới.
Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh đại tràng
Chẩn đoán dựa vào sự không có các tế bào hạch thần kinh giữa 2 lớp cơ trơn của đoạn hẹp trên các mẫu sinh thiết trực tràng.
Phân tích biểu đồ trong suy tim cấp và mạn còn bù
Trong suốt những giây đầu tiên sau cơn đau tim, đường cong cung lượng tim giảm xuống tới đường thấp nhất. Trong những giây này, đường cong máu tĩnh mạch trở về vẫn không thay đổi do tuần hoàn ngoại vi vẫn hoạt động bình thường.
Giải phẫu bệnh tinh hoàn
Tinh hoàn có các nang lao hoặc có phản ứng tế bào với thấm nhập bạch cầu đa nhân, tương bào, tế bào thượng mô tróc, tế bào đơn nhân, đại bào nhiều nhân và vi trùng lao.
Giải phẫu bệnh u thượng mô thông thường buồng trứng
Thượng mô nẩy chồi là hậu quả sự tăng sản thượng mô nhiều so với tăng sản mô đệm, thượng mô xếp dạng nhú, dạng chồi.
Sarcom cơ trơn tử cung
Hầu hết sarcom cơ trơn nằm trong lớp cơ, dưới dạng một khối đơn độc, đường kính trung bình là 9cm, bờ không rõ rệt, mềm hay chắc.