Giải phẫu bệnh u thượng mô thông thường buồng trứng

2012-11-27 08:27 PM

Thượng mô nẩy chồi là hậu quả sự tăng sản thượng mô nhiều so với tăng sản mô đệm, thượng mô xếp dạng nhú, dạng chồi.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

U thượng mô thông thường có xuất độ cao nhất, chiếm 75% các u buồng trứng và khoảng 90% các ung thư buồng trứng.

Phân loại dựa trên các tiêu chuẩn sau đây:

Loại mô học:

Có 5 loại mô học và 8 loại u.

Mức độ ác tính:

Các u được phân ra u lành, u giáp biên ác, u ác. U giáp biên ác có những đặc điểm mô học như carcinom tuyến nhưng không có dấu hiệu xâm nhập vào mô đệm. U được chẩn đoán là giáp biên ác khi có ít nhất 2 trên 4 tiêu chuẩn như sau:

Thượng mô nẩy chồi.

Thượng mô xếp nhiều tầng.

Có hoạt động phân bào.

Có dị dạng nhân.

Thượng mô nẩy chồi là hậu quả sự tăng sản thượng mô nhiều so với tăng sản mô đệm, thượng mô xếp dạng nhú, dạng chồi.

Thượng mô xếp nhiều tầng cũng là hậu quả của sự tăng sản quá mức thượng mô, và là yếu tố rất giá trị trong chẩn đoán u dịch nhầy.

Phân bào nhiều, phân bố không đồng đều trong khối u.

Tìm kiếm dấu hiệu không xâm nhập vào mô đệm, để khẳng định u là loại giáp biên ác phải được thực hiện trên tối thiểu hơn 10 mẫu sinh thiết (Hart và Norris, 1973). Đối với u nhầy, phải lấy mẫu mỗi 2 cm.

U Brenner có nhiều thành phần sợi hơn thành phần thượng mô. Đối với các u buồng trứng khác có nhiều mô sợi thì tên gọi u được thêm từ sợi chẳng hạn u tuyến-sợi, u tuyến bọc-sợi.

Hầu hết u thượng mô thông thường phát triển trong buồng trứng hoặc vừa phát triển trong và ở bề mặt buồng trứng. Nhưng có một số u dịch trong chỉ phát triển ở bề mặt của buồng trứng, chẳng hạn u nhú hay u dịch trong bề mặt.

Các u dịch trong

Các u dịch trong (lành và ác) chiếm 50% các u buồng trứng.

Carcinom tuyến bọc dịch trong và u giáp biên ác dịch trong chiếm 35-40% các ung thư buồng trứng. Đối với u dịch trong: 70% lành , 5-10% giáp biên ác, 20-25% ác. Tuổi xuất hiện u lành từ 30-60 tuổi, u ác từ 40-70 tuổi.

Đại thể:

Không có tiêu chuẩn nào phân biệt được u lành với u giáp biên ác hay với u ác. Đôi khi, u dịch trong giáp biên ác và u ác có các nhú nhiều hơn.

U bọc dịch trong lành tính thường là dạng u tuyến bọc. U có dạng bọc một thùy hay nhiều thùy, vỏ bao trơn láng hoặc có nhú nhỏ. U ở cả hai buồng trứng trong 7-12% các trường hợp (Scully, 1979).

U bọc dịch trong giáp biên ác ở cả hai buồng trứng trong 25-34% các trường hợp. 16-18% các trường hợp cho di căn ngoài buồng trứng. Kích thước u thường thay đổi từ 5-20cm đường kính. Trong tất cả các trường hợp có nhiều nhú trong lòng bọc. Trong 1/4 các trường hợp có nhú ở bề mặt.

U bọc dịch trong ác tính (carcinom tuyến bọc-dịch trong) trong 66% trường hợp ở cả hai buồng trứng và có di căn ngoài buồng trứng trong 80% các trường hợp. Thường u đặc hay bọc hay nửa đặc nửa bọc. Khi đặc, u cứng, bờ, thường xuất huyết hoại tử và không phân biệt được với các loại u ác buồng trứng khác. Khi nửa đặc nửa bọc, khó phân biệt u với u giáp biên ác.

 Vi thể:

Thượng mô lót u dịch trong là thượng mô vuông hay trụ thấp, đều đặn, nhân nằm ở giữa tế bào. Không có hình ảnh phân bào. Các tế bào thượng mô có chứa chất kháng men diastase, có các phản ứng PAS, Alcian blue và mucicarmine dương tính Có thể thấy các thể vôi (cũng gọi là thể cát) trong mô đệm. Dưới lớp thượng mô là mô liên kết thưa với rải rác các mạch máu.

U dịch trong giáp biên ác thực tế là u có độ ác tính thấp với lớp thượng mô lót tăng sản thành nhiều lớp tế bào, với các nhú vi thể, các nhú này có thể tróc ra và trôi trong u bọc, nhân dị dạng, phân bào ít hơn 4 trong 10 quang trường rộng. Thượng mô với các tế bào dị dạng, các đám, các nhú tế bào không xâm nhập vào mô đệm. Trong 20-40% các trường hợp có các thể vôi tròn.

Carcinom tuyến bọc dịch trong xâm nhập vào mô đệm, có nhiều mức độ biệt hoá khác nhau: rõ, vừa, kém. Trong dạng biệt hoá rõ, có dạng nhú rõ rệt, với trục liên kết ở giữa, và thượng mô đa tầng dị dạng bao phủ trục. Dạng biệt hoá vừa, các nhú chen chúc nhau, khó nhận dạng trục liên kết của các nhú.

Dạng biệt hoá kém, các tế bào xếp thành dãy, dải. Nhân tế bào thượng mô dị dạng, to nhỏ không đều, có phân bào. 32,5% carcinom tuyến bọc dịch trong có nhiều thể vôi tròn, và theo Aure thì tiên lượng khá hơn. Như trong u lành, bờ tế bào thượng mô cực ngọn nhuộm dương tính với PAS, mucicarmine và Alcian blue.

U dịch trong ác tính thấp và carcinom tuyến bọc-dịch trong buồng trứng thường cho di căn vào mạc nối lớn. Di căn hạch hiếm gặp hơn và ở giai đoạn trễ hơn.

Tiên lượng các carcinom tuyến bọc dịch trong buồng trứng là 35% có thời gian sống thêm 5 năm. Tiên lượng này còn tùy thuộc vào giai đoạn lâm sàng và độ biệt hoá của u.

Trong giai đoạn I, 50-70% bệnh nhân sống thêm 5 năm. Giai đoạn II,  chỉ  còn  40-50%. Giai đoạn III, chỉ còn 5-8%. Giai đoạn IV, gần như 0%.

Nhưng tiên lượng các u dịch trong ác tính thấp hoàn toàn khác. 90-95% sống thêm 5 năm. 80-90% sống thêm 10 năm. 72-86% sống thêm 15 năm.

Các u dịch nhầy

U dịch nhầy là u mà thượng mô có tế bào nhầy, tế bào này tương tự như thượng mô cổ tử cung hay thượng mô ruột, và thỉnh thoảng có tế bào ưa bạc và hiếm khi có tế bào Paneth.

U chiếm khoảng 15-20% u buồng trứng. Trong các u dịch nhầy, 85% lành, 6% ác tính thấp và 9% ác tính.

Carcinom tuyến bọc dịch nhầy chiếm khoảng 6-10% ung thư buồng trứng.

U bọc dịch nhầy ác tính thấp và ác tính thường gặp ở lứa tuổi 40-70 tuổi. U lành thường gặp ở lứa tuổi 30-50 tuổi.

Đại thể:

U bọc dịch nhầy thường là loại có kích thước lớn nhất trong các u buồng trứng, thường từ 15-30cm. U thường có nhiều bọc, vách mỏng, chứa dịch sền sệt, vỏ bao trơn láng.

U bọc dịch nhầy ác tính thấp và carcinom tuyến bọc dịch nhầy đôi khi rất giống u lành, nhưng có nhiều vùng đặc hơn và nhiều nhú hơn trên diện cắt.

 5% u lành ở cả hai buồng trứng 8-10% u ác tính thấp ở cả hai bên và 10-20% u ác tính ở cả hai buồng trứng.

Vi thể:

U bọc dịch nhầy được lót bởi một lớp tế bào trụ cao chế tiết chất nhầy, nhân đều đặn, nằm ở đáy.

U bọc dịch nhầy ác tính thấp có thượng mô trụ nhầy đa tầng, tế bào với nhân dị dạng, không đều, tăng sắc, hạt nhân to. Thỉnh thoảng có hình ảnh phân bào. Các tế bào thượng mô hợp thành tuyến, tăng sản nhiều với rất nhiều nhú trong lòng bọc. Các bọc thường san sát nhau, biến dạng do chèn ép lẫn nhau, có rất ít mô đệm xen kẽ giữa các bọc. 

U không xâm nhập mô đệm như u dịch nhầy ác, nhưng đôi khi trên vi thể rất khó đánh giá u xâm nhập hay không xâm nhập, nên Hart và Norris đề xuất u ác tính thấp nếu 3 lớp tế bào trở lại, nếu nhiều hơn 3 lớp, u ác tính thật sự.

U với tế bào thượng mô dạng sàng hay u có 4 lớp tế bào trở lên hay có thay đổi của mô đệm được đánh giá là u xâm nhập hay ác tính thật sự.

U dịch nhầy ác (carcinom tuyến bọc dịch nhầy) có nhiều dạng: biệt hoá rõ, biệt hoá vừa và biệt hoá kém. Dạng biệt hoá rõ có các bọc hay tuyến phủ bởi các tế bào nhầy, cao, với ít phân bào, dạng biệt hoá vừa có các tuyến dị dạng hơn, nhiều phân bào hơn và trong dạng biệt hoá kém, các tế bào tuyến xếp thành những dây tế bào, những ổ tế bào không đều nhau, rải rác trong mô đệm sợi, có khi đâu lưng vào nhau. Khoảng 15% u ác tính thấp cho di căn ngoài buồng trứng lúc được chẩn đoán. Khoảng 20% u ác tính cho di căn lúc phẫu trị, và ở giai đoạn trễ, có di căn máu và di căn hệ limphô.

Tiên lượng u dịch nhầy ác tính thấp tốt, 81-91% sống thêm 5 năm, 68-87% sống thêm 10 năm. Tiên lượng u dịch nhầy ác tính là 50-60% sống thêm 5 năm, 34-39% sống thêm 10 năm.

U dạng nội mạc tử cung

 U chiếm 5% u buồng trứng. Carcinom tuyến và u tuyến ác tính thấp chiếm 15-25% ung thư buồng trứng. U lành và u ác tính thấp rất hiếm gặp. Bệnh nhân thường khoảng 53 tuổi.

Đại thể:

30% các ung thư dạng nội mạc tử cung ở cả hai buồng trứng. U ác tính thấp thường dạng bọc, chứa dịch xuất huyết.

Vi thể:

Các tuyến chen chúc nhau, lưng đâu lưng vào nhau, không đều, tế bào thượng mô dị dạng, ít phân bào. U không xâm nhập vào mô đệm.

Carcinom dạng nội mạc tử cung thường có dạng bọc, đường kính từ 2-35cm. Lòng bọc bị che lấp một phần bởi các nhú bở. Có khi u đặc, có những vùng hoại tử hay xuất huyết.

U có dạng biệt hoá rõ với các ống tuyến, biệt hoá vừa, hay biệt hoá kém với các tế bào không xếp thành tuyến.

U có thể kèm theo sự hiện diện của các tế bào gai trong 30% các trường hợp. Nếu tế bào gai lành, là dạng adenoacanthôm, nếu tế bào gai ác tính thì là dạng carcinom tuyến-gai.

Trong 15-20% các trường hợp ung thư dạng nội mạc tử cung có kèm ung thư tuyến nội mạc tử cung. Thường đây là hai ung thư cùng phát triển độc lập và đồng thời với nhau.

Tiên lượng khá tốt, 50% sống thêm 5 năm và 35-40% sống thêm 10 năm. Tiên lượng này không thay đổi nếu có ung thư nội mạc tử cung kèm theo.

U hỗn hợp trung bì

Hiếm gặp, thường sau mãn kinh và ở tuổi trung bình là 58 tuổi. U có hai thành phần: mô liên kết và thượng mô.

60% u hỗn hợp trung bì là loại đa dạng, với mô đệm dị dạng, có nhiều tế bào hình thoi, nhân đậm, xếp san sát nhau, nhiều hình ảnh phân bào. Có nơi mô đệm có mô sụn, mô xương, mô dạng xương, mô cơ vân.

Thượng mô thường có dạng ung thư tuyến với nhiều mức độ biệt hoá khác nhau.

Đại thể:

U chỉ ở một buồng trứng, đường kính trung bình 14cm. U nửa đặc nửa bọc và có nhiều vùng xuất huyết hoại tử. 10% u ở cả hai buồng trứng.     

Tiên lượng sống là 12 tháng cho u đơn dạng và 6 tháng cho u đa dạng.

U tế bào sáng

Trước kia u tế bào sáng được coi như có nguồn gốc từ trung thận. Hiện nay, với hình ảnh siêu cấu trúc, u được xếp vào u có nguồn gốc từ ống Mller như những u thượng mô khác. 24% các u tế bào sáng có kết hợp với bệnh lạc nội mạc tử cung, và trong ung thư nội mạc tử cung cũng có dạng ung thư với tế bào sáng, càng củng cố nguồn gốc u này từ ống Mller. Hơn nữa, tiên lượng u tế bào sáng cũng tương tự như tiên lượng u dạng nội mạc tử cung. U chiếm 5% các ung thư buồng trứng, với tuổi trung bình 53 tuổi.

Đại thể:

Hầu hết các u tế bào sáng ác là u đặc. U thường có dạng bọc, lòng bọc bị bít hầu hết bởi mô u tăng sản. U thường chỉ có một bọc. Xẻ đôi mô u màu vàng nhạt. 3% u ở cả hai buồng trứng.

Vi thể:

U có dạng ống, dạng tuyến, dạng nhú, dạng nang, nằm rải rác trong mô đệm sợi. Các tế bào thượng mô lót có dạng đầu đinh, nhân to, bào tương ít và phình ra ở cực ngọn tế bào hoặc tế bào vuông hay trụ, bào tương sáng.

U này thường phối hợp với ung thư dịch trong hay ung thư dạng nội mạc tử cung.

U Brenner

U Brenner là u sợi-thượng mô với mô đệm tương tự như mô đệm buồng trứng và các ổ tế bào thượng mô chuyển tiếp như thượng mô tiết niệu. Nhân tế bào thượng mô thường có một rãnh như hạt cà phê.

U Brenner chiếm 2-3% u buồng trứng. 2% u Brenner ác tính. U thường gặp ở lứa tuổi 40-50 tuổi, u ác thường gặp ở lứa tuổi 50-60 tuổi.

U Brenner lành thường ở hai buồng trứng trong 6% các trường hợp. U ác thường chỉ ở một buồng trứng.

Đại thể:

Hầu hết u Brenner là u đặc, chắc, mặt cắt cuộn, trắng xám. U kích thước thay đổi, chỉ thấy được trên vi thể hoặc có đường kính từ 2-8cm. Trong u đặc có thể có nhiều nang nhỏ. U không có vỏ bao.

Vi thể:

Các ổ tế bào thượng mô đặc hay nang hóa, nằm rải rác trong mô đệm dày đặc tế bào hình thoi. Các tế bào thượng mô đa diện, lạt màu, bào tương ái toan, nhân bầu dục với một rãnh dọc như hạt cà phê.

U thường phối hợp với u bọc dịch nhầy và u quái dạng bọc.

U Brenner tăng sản thường có dạng u bọc nhiều thùy, trong bọc nhú. U Brenner ác có nhiều vùng đặc hơn và có hoại tử.

U Brenner tăng sản có dạng bọc được lót bởi một lớp thượng mô chuyển tiếp có từ 8-20 lớp tế bào với ít dị dạng tế bào. Rải rác có một vài hình ảnh phân bào. U không xâm nhập mô đệm.

U Brenner tăng sản là u lành tính.

Trong u Brenner ác, thành phần ác tính là ung thư thượng mô chuyển tiếp, ung thư gai hay ung thư không biệt hoá. U xâm nhập mô đệm.

U hỗn hợp thượng mô

U hỗn hợp thượng mô phối hợp ít nhất hai trong năm loại mô học chính của u thượng mô thông thường. Các loại này phải tượng trưng ít nhất cho 10% thể tích u.

Các dạng u hỗn hợp thượng mô thường gặp là:

U Brenner - u dịch nhầy.

U dịch trong - u dạng nội mạc tử cung.

U dịch nhầy - u dạng nội mạc tử cung.

Bài viết cùng chuyên mục

Giải phẫu bệnh tổn thương dạng u phần mềm

Bệnh sợi phát triển trong cơ ức đòn chũm của trẻ sơ sinh và trẻ lớn, lúc đầu là một khối nhỏ nếu không được cắt bỏ về sau sẽ gây chứng vẹo cổ.

Giải phẫu bệnh u và giả u ruột

Thay vì gây viêm ruột thừa thì lại làm cho các chất nhầy tiết ra bị ứ đọng lại trong lòng ruột tạo nên bọc nhầy.

Đại cương giải phẫu bệnh bệnh xương

Xương xốp hay xương bè hoặc xương tủy giúp cho chức năng chuyển hóa chất khoáng. Xương xốp ở đầu xương còn có nhiệm vụ truyền lực đến vỏ thân xương.

Giải phẫu bệnh hoạt động đại thực bào

Đại bào có kích thước lớn và chứa tới hàng chục nhân, được hình thành do nhiều đại thực bào kết dính với nhau hoặc do đại thực bào có nhân chia nhưng bào tương không phân chia. Có thể phân biệt 2 dạng đại bào:

Giải phẫu bệnh viêm đại tràng

Như đã đề cập trong phần bệnh Crohn của bài trước, bệnh viêm loét đại tràng vô căn có một số đặc điểm chung với bệnh Crohn

Giải phẫu bệnh tổn thương giả u cổ tử cung

Tổn thương thường gặp ở phụ nữ dùng viên thuốc ngừa thai, hay ở phụ nữ có thai hay sau sanh.

Giải phẫu bệnh tổn thương lấp mạch

Một vật cản lớn trong dòng huyết lưu có thể lấp toàn bộ lòng mạch và gây hiện tượng lấp kín, nhưng một vật cản nhỏ sẽ chỉ làm giảm thiểu lòng mạch và gây hiện tượng lấp hẹp.

Giải phẫu bệnh Carcinom nội mạc tử cung

Carcinom nội mạc tử cung có xuất độ cao nhất trong các ung thư đường sinh dục nữ ở Mỹ, với 39.000 trường hợp mới hàng năm (1984). Xuất độ carcinom nội mạc cao ở Canada và Âu Châu, thấp ở Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ.

Các kỹ thuật của giải phẫu bệnh

Các bệnh lý đặc trưng, nhà giải phẫu bệnh có kinh nghiệm có thể diễn giải chẩn đoán một cách chính xác ngay từ cái nhìn đầu tiên.

Lợi hại và phân loại viêm theo giải phẫu bệnh

Do giãn mạch tạm thời (động và tĩnh mạch), có thể biểu hiện dưới dạng hồng ban do nắng, ngoại ban (exanthema), tổn thương do nhiễm khuẩn.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh tử cung

Nếu teo đét ở một ống Mller, sẽ chỉ có loa vòi và một khối cơ ở thành chậu bên, hoặc có dạng tử cung hai sừng một cổ với một sừng thô sơ.

Giải phẫu bệnh nguyên nhân gây phù viêm

Khoảng 65% tổng số tế bào trong máu lưu thông là bạch cầu, 5 - 10% là bạch cầu nhân đơn, tỷ lệ còn lại là những loại tế bào khác. Bạch cầu chỉ di chuyển trong máu trong khoảng thời gian 6 giờ rồi bị hủy hoại ở lách.

Giải phẫu bệnh viêm tử cung

Ổ lao nguyên phát ở phổi hay ở ống tiêu hoá. Bệnh thường gặp ở tuổi sinh đẻ và thường kèm vô sinh.

Giải phẫu bệnh u lành tử cung

Pôlíp teo đét: có lớp tuyến teo đét, tế bào tuyến vuông hay trụ thấp. Các tuyến dãn nở, lớn hơn bình thường

Giải phẫu bệnh hội chứng Asherman

Mô nạo có ít mô nội mạc. Các vùng dính trong buồng tử cung là tổ chức sợi hay cơ trơn, với phản ứng viêm nhẹ.

Giải phẫu bệnh của tuyến vú

Trong lúc có thai, thay đổi sớm nhất là tuyến vú cứng chắc thêm, nẩy nở các tĩnh mạch dưới da, kèm theo hiện tượng tăng sắc tố ở quầng vú và núm vú.

Giải phẫu bệnh ung thư di căn đến não

Ung thư di căn não chiếm khoảng một phần tư đến một nửa khối u nội sọ, ở những bệnh nhân nhập viện. Các vị trí hay cho di căn nhất là phổi, vú, da (melanôm), thận, và đường tiêu hóa, chiếm khoảng 80% của tất cả các di căn.

Giải phẫu bệnh u hệ thần kinh

Hoại tử và tân sinh vi mạch, là đặc điểm quan trọng trong u nguyên bào đệm đa dạng (GBM); tế bào u xếp song song quanh ổ hoại tử.

Giải phẫu bệnh tổn thương huyết tắc

Huyết tắc là kết quả của quá trình di chuyển một vật lạ trong dòng huyết lưu, rồi ngưng chuyển để gây lấp kín lòng mạch (embolein: đẩy vào) taọ nên cục huyết tắc.

Giải phẫu bệnh một số tổn thương đại tràng

Đại tràng có nhiều túi thừa, đặc biệt ở phần đại tràng sigma và trực tràng. Càng lớn tuổi, xuất độ bệnh càng cao và hiếm gặp ở người dưới 30 tuổi. Bệnh do lớp niêm mạc và lớp dưới niêm mạc ruột lồi ra ngoài qua những điểm yếu của lớp cơ.

Giải phẫu bệnh của tuyến nước bọt

Nước bọt có nhiều nước, mucin, glycoprotein giúp làm trơn thức ăn, làm dễ nuốt. Nước bọt có tính sát khuẩn và là một chất đệm tốt. Trong nước bọt cũng có enzym amylase (ptyalin) có khả năng biến đổi tinh bột thành maltose và phân giải glycogen, và nhiều loại enzym khác.

Giải phẫu bệnh tụy tạng

Tụy của người trưởng thành dài khoảng 15 cm, nặng 60-100g, gồm đầu tụy, thân tụy và đuôi tụy. Ở đầu tụy có ống Wirsung dẫn dịch ngoại tiết vào tá tràng.

Nội dung nghiên cứu và nhiệm vụ giải phẫu bệnh

Tham gia vào các nghiên cứu với lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác. Kết hợp, đối chiếu kết quả để đưa ra kết luận cuối cùng.

Giải phẫu bệnh u lành tính dạ dày

Dù chỉ có xuất độ 0,5% các trường hợp tử thiết, pôlíp cũng là loại u lành thường thấy nhất của dạ dày. Có 2 loại: pôlíp tăng sản và u tuyến dạng pôlíp.

Giải phẫu bệnh bệnh tim và mạch máu

Bình thường, vào tuần thứ 4 của bào thai, 2 ống phôi tim mạch hòa nhập vào thành một với 4 buồng: xoang tĩnh mạch, tâm nhĩ, tâm thất và bầu thất.