- Trang chủ
- Sách y học
- Bài giảng giải phẫu bệnh
- Giải phẫu bệnh u ác tính cổ tử cung
Giải phẫu bệnh u ác tính cổ tử cung
Tăng sản thượng mô với tế bào tương đối non, mất cực tính. Các tế bào dạng đáy hay dạng cận đáy chiếm từ 1/3 đến hầu hết bề dày lớp thượng mô.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Tân sinh trong thượng mô cổ tử cung
Giữa những tổn thương lành tính và ác tính của cổ tử cung có một nhóm tổn thương đa dạng với tăng sản tế bào thượng mô không trưởng thành và dị dạng nhân. Nhóm này được gọi là tân sinh trong thượng mô cổ tử cung (danh pháp quốc tế viết tắt là CIN: Cervical Intraepithelial Neoplasia) và được coi như là tổn thương tiền ung thư.
Các tế bào thượng mô của CIN sinh sản nhanh, tróc nhanh với tế bào non không trưởng thành, có thể kèm dị dạng nhân.
U thường phát triển ở vùng tiếp giáp gai-trụ, chủ yếu dọc từ màng đáy lên bề mặt thượng mô gai.
Phân loại mô học dựa trên hai khái niệm khác nhau: (1) nghịch sản hay dị sản (dysplasie), dựa trên bất thường nhân và bất thường cấu trúc, và (2) dựa vào sự tăng sản các tế bào thượng mô và tính chất không trưởng thành của tế bào.
Theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới, nghịch sản cổ tử cung là rối loạn về trưởng thành và về biệt hoá tế bào thượng mô, với tăng sản tế bào đáy và trưởng thành không đồng bộ giữa nhân và bào tương. Nhưng các đặc điểm tế bào trên không chỉ đặc thù cho ung thư mà cũng có trong condylom phẳng.
Về vi thể, CIN thường có một số đặc điểm sau:
Tăng sản thượng mô với tế bào tương đối non, mất cực tính. Các tế bào dạng đáy hay dạng cận đáy chiếm từ 1/3 đến hầu hết bề dày lớp thượng mô.
Lớp thượng mô dễ tróc.
Nhân bất thường, tỷ lệ nhân trên bào tương tăng, nhân đa dạng, to nhỏ không đều, chất nhiễm sắc tăng sắc, trên cùng một lớp các tế bào trưởng thành không đồng bộ.
Nhiều hình ảnh phân bào
Tùy theo chiều cao của lớp tế bào không trưởng thành, có 3 nhóm CIN:
CIN1: tăng sản tế bào dạng đáy ở các lớp sâu của thượng mô, không quá 1/3 chiều dầy của thượng mô.
CIN2: tăng sản tế bào dạng đáy tối đa lên 2/3 chiều dầy lớp thượng mô.
CIN3: tế bào dạng đáy chiếm gần hết chiều dầy lớp thượng mô. Trên bề mặt có thể có vài lớp tế bào trưởng thành hơn.
Một số tác giả chia CIN3 ra ba dạng mô học khác nhau:
Dạng tế bào nhỏ thường gặp xuất phát từ cổ ngoài hay kênh cổ tử cung.
Dạng tế bào lớn sừng hóa, thường xuất phát từ phần cổ tử cung lộ ra. Các tế bào có cầu liên bào rõ, hạt nhân to, và sừng ở bề mặt thượng mô. Lớp sừng ở bề mặt này thể hiện dưới dạng một vệt trắng khi khám lâm sàng. Do đó mọi vệt trắng khi phát hiện cần được sinh thiết kiểm tra để loại trừ CIN hay ung thư.
Dạng tế bào lớn, không sừng hoá thường xuất phát từ vùng biến đổi. Đây là dạng thường gặp nhất. Tế bào không biệt hoá, cỡ tế bào cận đáy.
Trong CIN, cùng với những biến đổi của thượng mô còn có những biến đổi rõ rệt của lưới mạch máu dưới thượng mô. Do nhu cầu nuôi dưỡng mô tân tạo, do bị chèn ép bởi lớp thượng mô này, các mao mạch trở nên ngoằn ngoèo, phát triển dựng đứng lên gần sát bề mặt, tạo nên hình ảnh chấm đáy hay khảm.
Tuổi thường gặp của CIN là 20-35 tuổi.
Chẩn đoán CIN dựa vào tế bào học, soi cổ tử cung và sinh thiết dưới soi.
Điều trị CIN thường là đốt tan với laser, hoặc khoét chóp nếu là CIN2 hay CIN3.
Một nghiên cứu theo dõi 9 năm trên phụ nữ có CIN cho thấy, nếu không điều trị, 50% CIN1 chuyển sang CIN3, phần còn lại chuyển qua CIN2 hoặc không thay đổi. Thoái triển tự nhiên chỉ xảy ra với CIN1.
CIN3 có thể chuyển sang carcinom tại chỗ rồi thành ung thư xâm nhập trong 60-70% các trường hợp, do đó cần phải được điều trị ngay khi phát hiện.
Carcinom tại chỗ
CIN3 nếu không được điều trị đúng mức sẽ trở thành carcinom tại chỗ. Khi đó, tế bào ung thư chiếm hết chiều dày lớp thượng mô, nhưng vẫn chỉ khu trú trong lớp thượng mô. Màng đáy thượng mô vẫn còn nguyên.
Carcinom tế bào gai vi xâm nhập
Theo Hội Ung Thư Phụ Khoa Hoa Kỳ (1974), carcinom tế bào gai được gọi là vi xâm nhập khi thượng mô ác tính xâm nhập xuống mô đệm ở một hay nhiều nơi, với độ sâu bằng hay kém 3mm và không kèm theo xâm nhập mạch máu hay mạch limphô.
Bệnh nhân thường khoảng 40 tuổi.
Bệnh thường không gây triệu chứng lâm sàng và được chẩn đoán dựa vào xét nghiệm giải phẫu bệnh, tế bào học và soi cổ tử cung.
Vi thể:
Các tế bào ác tính phá vỡ màng đáy ở một hay nhiều nơi, các tế bào thượng mô ác tính có bào tương nhiều, hạt nhân to. Bờ các ổ tế bào ác tính răng cưa, không rõ ràng và đều đặn, do màng đáy bị vỡ.
Điều trị bằng cắt bỏ tử cung toàn phần, có kèm hay không kèm nạo hạch chậu.
Carcinom tế bào gai xâm nhập
Carcinom tế bào gai xâm nhập là một trong những ung thư đứng hàng đầu ở phụ nữ Việt Nam. Theo Nguyễn Chấn Hùng và cs., tại TP. Hồ Chí Minh, năm 1997, tần suất ung thư cổ tử cung trong quần thể là 27/100.000. Ung thư có thể gặp ở bất cứ tuổi nào giữa 17 và 90 tuổi. Xuất độ bệnh tăng cao ở phụ nữ có hoàn cảnh kinh tế-xã hội thấp, giao hợp sớm, giao hợp với nhiều người, sinh đẻ nhiều. Có mối liên hệ giữa nhiễm HPV với ung thư cổ tử cung. DNA của HPV được phát hiện trong 89% carcinom tế bào gai.
Thường carcinom cổ tử cung tiến triển từ CIN1 qua CIN2 rồi CIN3, carcinom tại chỗ, carcinom vi xâm nhập rồi carcinom xâm nhập. Từ CIN1 qua carcinom tại chỗ thường là 7 năm. Barron và cộng sự nghiên cứu thấy carcinom tại chỗ có thể kéo dài từ 3-10 năm. 43-66% CIN không điều trị có thể chuyển qua carcinom vi xâm nhập.
Triệu chứng thường gặp nhất của carcinom xâm nhập là xuất huyết âm đạo bất thường (99% các trường hợp). Xuất huyết thường xảy ra sau giao hợp hay tắm rửa. 10-20% bệnh nhân có huyết trắng hôi, có lẫn máu và đau nhức, có khi đau nhói ra vùng xương thiêng. Các triệu chứng khác khi bệnh đã tiến triển nhiều là: mệt mỏi, sụt cân, phù chi dưới, đau hậu môn, tiểu ra máu.
Phát hiện và chẩn đoán bệnh dựa vào tế bào học, soi cổ tử cung và sinh thiết dưới soi. Các xét nghiệm khác như thăm khám âm đạo-trực tràng, chụp đường tiết niệu có cản quang, soi bàng quang, soi hậu môn, soi đại tràng sigma, và thám sát xương, dùng để đánh giá giai đoạn lâm sàng.
Đại thể:
U có dạng một nốt cứng hoặc một vết loét nông, hay một vùng có hạt hơi cao hơn vùng khác, chảy máu khi đụng vào. 98% carcinom phát hiện sớm khu trú trong vùng biến đổi. Phát hiện trễ hơn, carcinom xâm nhập có hai dạng: loét thâm nhiễm hay cục thâm nhiễm và chồi sùi hay nhú sùi.
Vi thể:
75-77% là carcinom tế bào gai. 23-25% còn lại là carcinom tuyến, carcinom tuyến-gai và carcinom không biệt hoá.
Carcinom tế bào gai được chia ra 3 độ mô học:
Độ 1: biệt hoá rõ, có nhiều chất sừng, dưới dạng dải sừng hay cầu sừng giữa những ổ tế bào ung thư. Tế bào lớn, bào tương nhiều, ái toan. Nhân to, dị dạng, méo mó, tăng sắc. Có phân bào. Các tế bào xếp san sát nhau, có cầu liên bào.
Độ 2: biệt hoá vừa, các tế bào ác tính đa dạng hơn loại trên, ít bào tương hơn, nhân to méo mó, ít thấy cầu liên bào. Phân bào nhiều hơn ở độ 1.
Độ 3: biệt hoá kém, gồm các tế bào dạng tế bào đáy, nhân bầu dục đậm màu, bào tương ít, có thể có những ổ nghịch sừng. Có nhiều phân bào.
Carcinom tế bào gai cổ tử cung xâm nhập ăn lan đến các mô kế cận và mạch limphô, hiếm hơn qua mạch máu.
Hay gặp nhất là carcinom tế bào gai biệt hoá vừa, kế đến là biệt hoá kém và dạng biệt hoá rõ.
Diễn tiến tự nhiên của bệnh thường theo trình tự như sau: Thoạt đầu, tế bào ác tính xâm nhập vào quanh các mô thần kinh và mạch máu, vào chu cung và các dây chằng, sau lan tới vùng chậu và chèn ép một hay hai niệu quản. Ung thư có thể xâm nhập tử cung, âm đạo, bàng quang và trực tràng.
Ung thư thường di căn đến các hạch chu cung, hạ vị, hạch chậu ngoài. 25-50% ung thư ở giai đoạn Ib và giai đoạn II có di căn hạch limphô.
Di căn đường máu rất trễ, thường ở giai đoạn IV, đến phổi, gan, xương, tim, da.v.v...
Tùy theo mức độ xâm nhập của ung thư cổ tử cung mà điều trị bằng xạ trị hoặc/và phẫu thuật.
Carcinom tuyến xâm nhập
Trước đây carcinom tuyến chiếm 5-8% ung thư cổ tử cung. Xuất độ carcinom tuyến gần đây tăng nhiều, có khi chiếm 34% ung thư cổ tử cung.
Bệnh nhân thường có xuất huyết âm đạo bất thường.
Đại thể:
50% bệnh nhân có một khối u chồi sùi, hay dạng nhú, 15% không thấy u vì u nằm trong kênh cổ tử cung.
Vi thể:
Hầu hết là ung thư biệt hoá rõ hay biệt hoá vừa, sắp xếp thành dạng tuyến tương tự như tuyến nhầy cổ tử cung, có dạng phân nhánh với tế bào trụ cao và bào tương chứa nhiều mucin.
Các dạng mô học khác, hiếm gặp hơn, gồm carcinom tuyến nhầy dạng nhú, carcinom nhầy như carcinom đại tràng, carcinom dạng nội mạc tử cung, carcinom tế bào sáng. Đặc biệt carcinom tế bào sáng thường kèm tiền căn sử dụng DES (diethylstilbestrol) trước sinh, ở mẹ các bệnh nhân.
Carcinom tuyến cổ tử cung cũng di căn theo đường lân cận và đường limphô như carcinom tế bào gai, nhưng di căn sớm hơn.
Điều trị giai đoạn I và II là xạ trị và xạ trị, phối hợp với phẫu cắt bỏ tử cung.
Carcinom tế bào gai-tuyến
Chiếm 10% ung thư cổ tử cung. U gồm cả 2 thành phần gai ác tính và tuyến ác tính.
Carcinom tế bào gai-nhầy
U gồm các dải, các ổ tế bào gai ác tính, với rải rác các tế bào nhầy tiết mucin.
U carcinoid
U xuất phát từ tế bào ưa bạc của thượng mô cổ trong cổ tử cung và thuộc về hệ APUD (Amine Precursor Uptake and Decarboxylation).
U ác tính, tăng sản thành bè, dải tế bào, có nơi sắp xếp thành nang tuyến. Tế bào tròn hay bầu dục, nhân hình thoi, bào tương có hạt mịn. U có nhiều phân bào.
Ung thư cổ tử cung do di căn
Di căn xuống cổ tử cung thường là ung thư tiếp cận như ung thư nội mạc tử cung, trực tràng hay bàng quang.
Di căn theo đường limphô hay đường máu xuống cổ tử cung có ung thư buồng trứng, ung thư nội mạc tử cung, ung thư đại tràng, ung thư dạ dày, ung thư vú.
Phân biệt carcinom tuyến nguyên phát hay di căn ở cổ tử cung đôi khi rất khó, nếu carcinom này có dạng không biệt hoá. Thường 80% carcinom tuyến cổ tử cung có CEA dương tính mạnh, trong khi chỉ có 8% carcinom nội mạc tử cung có CEA dương tính. Xét nghiệm tìm Vimentine dương tính trong 80% các carcinom nội mạc tử cung, nhưng lại âm tính trong thượng mô cổ trong cổ tử cung bình thường và ung thư.
Bài viết cùng chuyên mục
Giải phẫu bệnh Carcinom nội mạc tử cung
Carcinom nội mạc tử cung có xuất độ cao nhất trong các ung thư đường sinh dục nữ ở Mỹ, với 39.000 trường hợp mới hàng năm (1984). Xuất độ carcinom nội mạc cao ở Canada và Âu Châu, thấp ở Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ.
Giải phẫu bệnh u và giả u ruột
Thay vì gây viêm ruột thừa thì lại làm cho các chất nhầy tiết ra bị ứ đọng lại trong lòng ruột tạo nên bọc nhầy.
Giải phẫu bệnh tinh hoàn
Tinh hoàn có các nang lao hoặc có phản ứng tế bào với thấm nhập bạch cầu đa nhân, tương bào, tế bào thượng mô tróc, tế bào đơn nhân, đại bào nhiều nhân và vi trùng lao.
Giải phẫu bệnh các yếu tố và giai đoạn của viêm
Viêm (từ nguyên la tinh inflammare có nghĩa là lửa cháy và từ nguyên Hán ( ) có nghĩa là nóng, nhiệt) là một hiện tượng đã được nói đến từ thời cổ đại (thiên niên kỷ 4 trước công nguyên - thế kỷ 5 sau công nguyên).
Giải phẫu bệnh bệnh của tế bào nuôi
Về hoá mô miễn dịch, các tế bào nuôi không tiết ra nội tiết tố, các nội tiết tố như HCG và HPL
Giải phẫu bệnh viêm đại tràng
Như đã đề cập trong phần bệnh Crohn của bài trước, bệnh viêm loét đại tràng vô căn có một số đặc điểm chung với bệnh Crohn
Giải phẫu bệnh ung thư gan
Ngày nay người ta thấy có sự liên quan rõ ràng giữa ung thư này với bệnh xơ gan, với sự nhiễm virus viêm gan siêu vi B.
Giải phẫu bệnh của gan
Các enzym SGOT (serum glutamic oxaloacetic transferase) và SGPT (serum glutamic pyruvic transferase) do gan tổng hợp
Giải phẫu bệnh ung thư di căn đến não
Ung thư di căn não chiếm khoảng một phần tư đến một nửa khối u nội sọ, ở những bệnh nhân nhập viện. Các vị trí hay cho di căn nhất là phổi, vú, da (melanôm), thận, và đường tiêu hóa, chiếm khoảng 80% của tất cả các di căn.
Nội dung nghiên cứu và nhiệm vụ giải phẫu bệnh
Tham gia vào các nghiên cứu với lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác. Kết hợp, đối chiếu kết quả để đưa ra kết luận cuối cùng.
Giải phẫu bệnh phù
Phù là sự ứ đọng bất thường các dịch đó trong ở mô đệm kẽ, còn ứ đọng dịch ở trong tế bào là hiện tượng thũng đồng thẩm thấu. Hình thái đại thể và vi thể của phù thường khác biệt tùy thuộc vị trí và cấu trúc của tạng bị thương tổn.
Giải phẫu bệnh bệnh hệ thần kinh
Hệ thần kinh và những thành phần phụ của hệ thần kinh gồm nhiều loại tế bào hoặc mô cơ bản. Mặc dù những biến đổi bệnh lý của hệ thần kinh không khác biệt với nhiều vùng trong cơ thể.
Các kỹ thuật của giải phẫu bệnh
Các bệnh lý đặc trưng, nhà giải phẫu bệnh có kinh nghiệm có thể diễn giải chẩn đoán một cách chính xác ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Giải phẫu bệnh u lành gan và đường mật
Dạng tổn thương một cục đơn độc cũng có tên là tăng sản cục khu trú, có lẽ là do khiếm khuyết phát triển dạng hamartom, nữ giới mắc bệnh nhiều hơn nam giới.
Giải phẫu bệnh tổn thương dạng u phần mềm
Bệnh sợi phát triển trong cơ ức đòn chũm của trẻ sơ sinh và trẻ lớn, lúc đầu là một khối nhỏ nếu không được cắt bỏ về sau sẽ gây chứng vẹo cổ.
Giải phẫu bệnh đại tràng
Trên thực tế lâm sàng, bệnh của đại tràng chiếm tỷ lệ khá cao trong các bệnh được phẫu trị. Ung thư đại tràng là nguyên nhân đứng hàng thứ 2 gây tử vong ở người lớn.
Giải phẫu bệnh khớp xương
Thường do sự lan rộng của lao xương. Bệnh xảy ra chủ yếu ở trẻ em, hay gặp nhất ở khớp háng. Màng khớp rất dày với mô hạt viêm lao. Mặt khớp bị ăn mòn.
Giải phẫu bệnh bệnh hô hấp
Carcinôm tế bào nhỏ vào thời điểm được chẩn đoán, thường đã di căn. Ngoài ra, còn có một số loại ung thư khác hiếm gặp như u trung mạc.
Giải phẫu bệnh u và tổn thương dạng u xương
Có nhiều tổn thương phối hợp trong cùng một u. Bên cạnh chủ mô u, có thể thấy mô phản ứng, mô tái tạo tu bổ sau hoại tử, xuất huyết, phẫu thuật hoặc gãy xương bệnh lý.
Sarcom cơ trơn tử cung
Hầu hết sarcom cơ trơn nằm trong lớp cơ, dưới dạng một khối đơn độc, đường kính trung bình là 9cm, bờ không rõ rệt, mềm hay chắc.
Giải phẫu bệnh u thượng mô thông thường buồng trứng
Thượng mô nẩy chồi là hậu quả sự tăng sản thượng mô nhiều so với tăng sản mô đệm, thượng mô xếp dạng nhú, dạng chồi.
Giải phẫu bệnh của ruột thừa
Bệnh có thể có ở mọi tuổi nhưng xuất độ bệnh cao nhất xảy ra ở thanh niên và người trẻ. Nam giới có xuất độ bệnh cao gấp 5 lần nữ giới.
Giải phẫu bệnh một số tổn thương đại tràng
Đại tràng có nhiều túi thừa, đặc biệt ở phần đại tràng sigma và trực tràng. Càng lớn tuổi, xuất độ bệnh càng cao và hiếm gặp ở người dưới 30 tuổi. Bệnh do lớp niêm mạc và lớp dưới niêm mạc ruột lồi ra ngoài qua những điểm yếu của lớp cơ.
Giải phẫu bệnh u hệ thần kinh
Hoại tử và tân sinh vi mạch, là đặc điểm quan trọng trong u nguyên bào đệm đa dạng (GBM); tế bào u xếp song song quanh ổ hoại tử.
Giải phẫu bệnh viêm não màng não
Ở trẻ em, Haemophilus influenzae là vi khuẩn thường gặp nhất gây viêm màng não; sự phát triển của vắc xin, làm giảm tỷ lệ viêm màng não rất nhiều.