Giải phẫu bệnh tổn thương hoại tử máu

2012-11-25 11:42 AM

Khởi đầu, trong một thời gian ngắn, mô bị hoàn toàn thiếu máu, màu nhạt và khô. Rồi đột ngột sung huyết mạnh và tràn ngập máu kèm hoại tử.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Hoại tử máu có 3 dạng:

(1) nhồi máu động mạch: là vùng mô bị hoại tử thiếu máu, do lấp tắc động mạch. Có 2 loại (a) nhồi máu trắng với vùng mô thiếu máu và (b) nhồi máu đỏ với vùng mô chảy máu tràn ngập hồng cầu.

(2) nhồi máu tĩnh mạch là vùng mô bị hoại tử chảy máu do lấp tắc tĩnh mạch , trong khi động mạch tương ứng không bị tắc nghẽn.

(3) ngập máu là tình trạng rối loạn đột ngột tuần hoàn máu ở một tạng, nhiều tạng hoặc quanh tạng gây chảy máu do hồng cầu thoát mạch kèm hoại tử huyết nhưng không có lấp tắc mạch.

Nhồi máu động mạch

Nhồi máu trắng: Vị trí thường gặp ở thận, lách, não, cơ tim, nghĩa là những tạng được nuôi dưỡng bởi một hệ thống mạch tận. Lấp tắc động mạch thường xảy ra ở trục mạch chính hoặc xảy ra liên tiếp ở một hoặc nhiều nhánh nhỏ, vì vậy một tạng có thể mang nhiều ổ nhồi máu. Dòng tĩnh mạch về (ở phía dưới ổ nhồi máu) thường vẫn thông chảy. Ổ nhồi máu trắng bao gồm: (i) vùng trung tâm hoại tử đông, màu trắng vàng, mật độ rắn hoặc mềm, có hình thái và ranh giới khá rõ, tương ứng với đoạn động mạch bị lấp tắc: hình tam giác, đỉnh hướng về rốn (thận), hoặc hình đa vòng hoặc vuông. Cấu trúc mô còn nhận rõ, các tế bào có bào tương thuần nhất và nhân đông (ii) vùng ngoại vi, màu xám nhạt, với lớp mô không bị hoại tử nhưng có phù sung huyết kèm thấm nhập nhiều loại tế bào: bạch cầu nhân múi, đại thực bào, mô bào (iii) vùng cực ngoài, màu đỏ tím do sung huyết, giãn mạch, tiếp cận với mô lành.

Hình thái và cấu trúc ở nhồi máu trắng thường khác nhau tùy thuộc các giai đoạn tiến triển: (a) lúc khởi thủy, khi bắt đầu thiếu máu trong khoảng thời gian vài giờ đồng hồ (4 - 12 giờ, đối với nhồi máu cơ tim), thật khó nhận rõ các biến đổi hình thái (đại thể, vi thể). Vì vậy trên tử thiết một bệnh nhân chết đột ngột do nhồi máu cơ tim, có thể không phát hiện được tổn thương đặc thù nào của ổ nhồi máu. Tuy nhiên, quan sát qua kính hiển vi điện tư, cho thấy nhiều biến đổi tế bào ở giai đoạn đầu của hoại tử thiếu máu (các ty thể phồng to, chất nền bị đông đặc, lưới nội bào giãn rộng, các tế bào phồng to....) kèm những thay đổi hóa mô, (tiêu glucoz và nhiều loại enzym giảm hoạt động). (b) tiến triển của ổ nhồi máu cũng giống như một ổ viêm: có dịch phù tràn ngập, nhiều bạch cầu nhân múi, mô bào, các mạch máu giãn rộng. Bạch cầu chế tiết các men tiêu đạm và tham gia thực tượng để hủy hoại và dọn sạch mô hoại tử, dần dần xuất hiện mô liên kết để thay thế. (c) ổ nhồi máu cũ thường có dạng xơ nhăn rúm, hóa sẹo, màu trắng nhạt, khô cứng. Cũng nên chú ý những dạng đặc biệt: nhồi máu do thiếu máu ở mô não thường có kèm hoại tử nước, vì vậy còn gọi là nhũn não, dần dần thoái triển và có thể tạo nên khoang bọc tồn dư với vỏ bao mô sợi. Ổ nhồi máu cũng có thể bị nhiễm khuẩn phụ gọi là ổ nhồi máu hóa mủ.

Nhồi máu đỏ: Vị trí phổ biến là các tạng rỗng và mô mềm như phổi, ruột. Lấp tắc có thể xảy ra ở các mạch máu có kích thước khác nhau kèm những rối loạn tuần hoàn (chức năng hoặc thực thể) trong vùng lưới tĩnh mạch tương ứng. Ổ nhồi máu có dạng mô ứ đầy máu đen, rắn cứng, ranh giới rõ, hình vuông hoặc tam giác, có đáy hướng về màng phổi, và đỉnh về phía rốn phổi nơi có động mạch bị lấp tắc. Vùng bờ ngoại vi thường bị che mờ bởi vùng chảy máu và lẫn vào vùng mô tổn thương.

Ô nhồi máu đỏ (thí dụ ở phổi) (cũng như ổ nhồi máu trắng) gồm 3 vùng: (i) vùng trung tâm hoại tử chảy máu còn lờ mờ hình ảnh các hốc phổi. (ii) vùng ngoại vi với các hốc phổi chứa đầy dịch phù, nhiều bạch cầu nhân múi và mô bào (dạng viêm hốc phổi phù và bạch cầu tơ huyết). (iii) vùng cực ngoài sung huyết mạnh.

Khởi đầu, trong một thời gian ngắn, mô bị hoàn toàn thiếu máu, màu nhạt và khô. Rồi đột ngột sung huyết mạnh và tràn ngập máu kèm hoại tử. Sau đó là phản ứng viêm ở vùng ngoại vi, bong mô hoại tử rồi hóa sẹo (cũng giống như tiến trình của ổ nhồi máu trắng). Tại mô sẹo hóa sợi, có thể nhận thấy những hạt sắc tố hemosiderin màu nâu (do hồng cầu thoái hóa).

Hiện nay cũng chưa rõ cơ chế tràn ngập máu trong vùng ổ hoại tử thiếu máu (động mạch); có lẽ do nhiều yếu tố cùng hoạt động gây nên.

Quá  trình tiến triển của những ổ nhồi máu: ổ nhồi máu thường phức tạp: có thể trải qua một giai đoạn rất ngắn bị thiếu máu rồi trở nên đỏ rực (như ở phổi) hoặc có thể đỏ rực từ lúc khởi đầu khi hoại tử chảy máu xảy ra tức thì (như ở phổi các bệnh nhân có tim ứ trệ máu) hoặc có màu trắng kèm những vạch hoặc đám chảy máu đỏ tạo nên những vân ngang dọc (như ở cơ tim) hoặc một ổ nhồi máu đỏ bất chợt xảy ra trên một tạng vốn thường có nhồi máu trắng.

Nhồi máu đỏ của phổi là kết quả của dòng tuần hoàn động mạch kép kèm những rối loạn huyết động học. Tuy nhiên, các nhánh nối tiểu động mạch - động mạch và động - tĩnh mạch (vốn đóng kín ở tình trạng bình thường) nay đều giãn nở (do phản xạ) và các nhánh nối giữa động mạch phế quản và tĩnh mạch phổi đều tham gia hiện tượng chảy máu đặc biệt do tăng áp lực đẩy máu vào một vùng vi mạch đã ứ đầy máu.

Nhồi máu tĩnh mạch

Do huyết khối tĩnh mạch (ở bệnh nhân tim) thường xảy ra ở phổi, thận, lách, ở ruột non, (hiếm gặp) (do huyết khối tĩnh mạch mạc treo), ở thượng thận (do huyết khối tĩnh mạch trung tâm thượng thận). Những đặc điểm đại thể, vi thể và quá trình tiến triển đều giống ổ nhồi máu đỏ: nhiều vùng phù, chảy máu, sung huyết tĩnh mạch màu tím sẫm, chứng tỏ có lấp tắc tĩnh mạch (thường khó xác định), vì vậy, nhiều tác giả đã loại bỏ quan niệm nhồi máu tĩnh mạch và gọi chung là nhồi máu đỏ, bao gồm mọi hoại tử thiếu máu kèm tràn ngập máu dù nguyên nhân là lấp tắc động mạch hoặc tĩnh mạch.

Ngập máu

Là tình trạng hồng cầu thoát mạch kèm hoại tử mô nhưng không có lấp tắc mạch máu. Thường xảy ra ở các tạng của hệ tiêu hóa và hệ sinh dục, hiếm ở não và tuyến nội tiết. Quá trình ngập máu có thể gây hậu quả tai hại, thường xảy ra trong những hoạt động sinh lý mạnh: hoạt động tiêu hóa, (ở tụy và ruột), chế tiết hormon (hệ sinh dục) v.v....Tổn thương bao gồm những đám chảy máu lan rộng, xuất dịch phù, hoại tử không rõ ranh giới. Đôi khi các vùng tổn thương được khu trú nhưng thường lan rộng ở một hoặc nhiều tạng, tới cả mạc treo, dây chằng, thanh mạc. Như vậy ngập máu chiếm cả một vùng giải phẫu định khu, khá rộng lớn, màu đỏ sẫm, mềm ướt, và có thể chảy dịch máu. Ngập máu có thể xảy ra dưới dạng viêm tụy cấp hoại tử chảy máu, ngập máu nhau thai - tử cung, ngập máu ống trứng - buồng trứng, ngập máu tinh hoàn v.v... Tiến triển giống như các ổ hoại tử chảy máu khác nhưng các ổ nhỏ thường có xu hướng dễ tạo thành bọc (ở tụy hoặc tuyến giáp). Ngập máu có lẽ do biến đổi bất thường trong hoạt động vận mạch: một kích thích mạnh tác động đến mạch máu sẽ làm co mạch gây thiếu máu ở vùng hạ lưu mạch và một kích thích mạnh hơn sẽ gây tê liệt đồng thời cả hai hoạt động co mạch và giãn mạch, tạo nên tình trạng ứ trệ, vô oxy, hoại tử và chảy máu do thoát mạch. Như vậy, ngập máu được hình thành mà không có lấp tắc mạch, bởi vì chính những yếu tố tác hại khác nhau, ở địa phương hoặc toàn cơ thể mang bản chất nhiễm độc hoặc nhiễm khuẩn đã tác động trực tiếp trên các đám rối thần kinh (cuả vách mạch) hoặc gián tiếp qua hạch thần kinh giao cảm. Tất cả sẽ hình thành cơ chế phản xạ trục thần kinh hoặc phản xạ phức tạp hơn qua hạch thần kinh ngoại vi. Vì vậy thực nghiệm tác động trên hạch thần kinh tạng (nhờ kích thích cơ học hoặc nhờ độc tố vi khuẩn) có thể gây ngập máu ruột - mạc treo và chảy máu ở ruột.

Biểu hiện lâm sàng

Có 2 dạng:

(1) biểu hiện toàn thân. Những ổ nhồi máu nhỏ thường khó nhận biết, phần lớn các ổ nhồi máu thường gây đau đột ngột, có (hoặc không) lan tỏa, có (hoặc không) kèm sốc. Cũng có thể gây tử vong tức thì, do sốc không khả hồi, do suy chức năng cấp, (nhồi máu cơ tim) hoặc gây suy giảm chức năng thận (nhồi máu thận), gây hậu quả xấu lâu dài. Các biểu hiện lâm sàng và những nguy cơ tai biến tùy thuộc vị trí giải phẫu định khu và mức độ lan rộng của vùng hoại tử: khó thở và ho máu (trong nhồi máu phổi), biến đổi bất thường của điện tâm đồ, giảm huyết áp và rối loạn nhịp tim (trong nhồi máu cơ tim), dấu hiệu tổn thương thần kinh (nhũn não....). Tiến triển của ổ hoại tử có thể biểu hiện lâu dài bằng sốt cao, tăng bạch cầu máu, tăng lượng một số enzym huyết thanh (như serum glutamo oxaloacetic - transaminaza: SGOT).

(2) biểu hiện tại chỗ. Tùy thuộc vị trí giải phẫu, mức độ lan rộng, có (hoặc không) tái phát nhiều lần, vùng hoại tử thiếu máu có thể làm vùng mô tổn thương biến dạng, teo đét hoặc hủy hoại (một phần hoặc toàn bộ tạng), thí dụ như: lách có những ổ sẹo lõm trắng, tâm thất sưng phù do giãn phồng mạch vách, cơ tim có sẹo nhồi máu thường giãn nở do áp lực máu, thận teo nhỏ hóa xơ, có mỡ, buồng trứng, ống trứng bị cứng, ngập máu, chảy máu, giống như có thai ngoài tử cung.

Hoại tử thiếu máu cũng có thể gây rách vỡ tạng: vỡ tim kèm tràn máu bao tim, gây tử vong tức thì, vỡ lách gây tràn máu ổ bụng, thủng ruột gây viêm phúc mạc nhiễm khuẩn v.v.....

Bài viết cùng chuyên mục

Giải phẫu bệnh bệnh tim và mạch máu

Bình thường, vào tuần thứ 4 của bào thai, 2 ống phôi tim mạch hòa nhập vào thành một với 4 buồng: xoang tĩnh mạch, tâm nhĩ, tâm thất và bầu thất.

Giải phẫu bệnh tổn thương giả u cổ tử cung

Tổn thương thường gặp ở phụ nữ dùng viên thuốc ngừa thai, hay ở phụ nữ có thai hay sau sanh.

Giải phẫu bệnh viêm xương

Bệnh viêm mủ xương-tủy có thể chia làm 3 giai đoạn diễn tiến liên tục và chuyển đổi từ từ không có ranh giới rõ rệt: cấp, bán cấp và mạn tính.

Sarcom cơ trơn tử cung

Hầu hết sarcom cơ trơn nằm trong lớp cơ, dưới dạng một khối đơn độc, đường kính trung bình là 9cm, bờ không rõ rệt, mềm hay chắc.

Nội dung nghiên cứu và nhiệm vụ giải phẫu bệnh

Tham gia vào các nghiên cứu với lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác. Kết hợp, đối chiếu kết quả để đưa ra kết luận cuối cùng.

Giải phẫu bệnh của tuyến nước bọt

Nước bọt có nhiều nước, mucin, glycoprotein giúp làm trơn thức ăn, làm dễ nuốt. Nước bọt có tính sát khuẩn và là một chất đệm tốt. Trong nước bọt cũng có enzym amylase (ptyalin) có khả năng biến đổi tinh bột thành maltose và phân giải glycogen, và nhiều loại enzym khác.

Giải phẫu bệnh u lành tử cung

Pôlíp teo đét: có lớp tuyến teo đét, tế bào tuyến vuông hay trụ thấp. Các tuyến dãn nở, lớn hơn bình thường

Lợi hại và phân loại viêm theo giải phẫu bệnh

Do giãn mạch tạm thời (động và tĩnh mạch), có thể biểu hiện dưới dạng hồng ban do nắng, ngoại ban (exanthema), tổn thương do nhiễm khuẩn.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và chuyển sản

Tăng sản dạng nang: Đây là dạng phổ biến nhất. Các tuyến dãn nở, kích thước thay đổi, được lót bởi một lớp thượng mô trụ cao, rải rác có hình ảnh phân bào. Thượng mô có thể xếp thành nhiều tầng.

Giải phẫu bệnh bệnh buồng trứng

Bệnh lý viêm rất hiếm gặp. U có thể sinh ra từ những mô phức tạp của buồng trứng trưởng thành hay của vết tích mô phôi của buồng trứng.

Giải phẫu bệnh hoạt động đại thực bào

Đại bào có kích thước lớn và chứa tới hàng chục nhân, được hình thành do nhiều đại thực bào kết dính với nhau hoặc do đại thực bào có nhân chia nhưng bào tương không phân chia. Có thể phân biệt 2 dạng đại bào:

Mối quan hệ giữa giải phẫu bệnh và lâm sàng

Các lĩnh vực như sinh học phân tử, hóa mô miễn dịch, và di truyền học đã được áp dụng trong nghiên cứu các bệnh ung thư và trong thực tiển điều trị căn bệnh này.

Giải phẫu bệnh bệnh thực quản

Thực quản có lớp niêm mạc là thượng mô lát tầng không sừng hoá, đoạn gần tâm vị có tuyến giống tuyến tâm vị. Lớp cơ thực quản có 2 loại: cơ vân ở 1/3 trên và cơ trơn 2/3 dưới.

Giải phẫu bệnh ruột non

Lớp thượng mô lót bởi các hốc khác với lớp thượng mô của nhung mao. Có 4 loại tế bào thượng mô của hốc: tế bào Paneth, tế bào không biệt hoá, tế bào đài và tế bào nội tiết.

Giải phẫu học cổ tử cung trong giải phẫu bệnh

Cổ tử cung được bao phủ bởi hai lớp thượng mô: thượng mô gai cổ ngoài và thượng mô trụ cổ trong.

Giải phẫu bệnh u lành gan và đường mật

Dạng tổn thương một cục đơn độc cũng có tên là tăng sản cục khu trú, có lẽ là do khiếm khuyết phát triển dạng hamartom, nữ giới mắc bệnh nhiều hơn nam giới.

Giải phẫu bệnh dị tật bẩm sinh đại tràng

Chẩn đoán dựa vào sự không có các tế bào hạch thần kinh giữa 2 lớp cơ trơn của đoạn hẹp trên các mẫu sinh thiết trực tràng.

Giải phẫu bệnh u phúc mạc

Đó là những khối dạng bọc, to hoặc nhỏ, ở mạc treo ruột hoặc dính vào phúc mạc dọc theo thành bụng. Có thể chẩn đoán nhầm với các u khác trong bụng.

Giải phẫu bệnh phần mềm

Việc chẩn đoán các u hiếm cần rất thận trọng và được hội chẩn liên khoa giải phẫu bệnh-lâm sàng-hình ảnh học y khoa.

Các kỹ thuật của giải phẫu bệnh

Các bệnh lý đặc trưng, nhà giải phẫu bệnh có kinh nghiệm có thể diễn giải chẩn đoán một cách chính xác ngay từ cái nhìn đầu tiên.

Giải phẫu bệnh u mầm bào buồng trứng

U mầm bào là nhóm u buồng trứng lớn thứ hai sau u thượng mô thông thường, với xuất độ là 20% u buồng trứng. Tỷ lệ này là tỷ lệ bên Âu Châu và Châu Mỹ, còn bên Á Châu và Phi Châu, nơi xuất độ u thượng mô thấp hơn.

Giải phẫu bệnh khớp xương

Thường do sự lan rộng của lao xương. Bệnh xảy ra chủ yếu ở trẻ em, hay gặp nhất ở khớp háng. Màng khớp rất dày với mô hạt viêm lao. Mặt khớp bị ăn mòn.

Giải phẫu bệnh của gan

Các enzym SGOT (serum glutamic oxaloacetic transferase) và SGPT (serum glutamic pyruvic transferase) do gan tổng hợp

Giải phẫu bệnh u hỗn hợp trung bì tử cung

U Muller hỗn hợp là loại sarcom tử cung thường gặp nhất dù chỉ chiếm 1,5% u ác tử cung và là u có độ ác tính cao

Giải phẫu bệnh tổn thương huyết khối

Khi có tổn thương nội mạc, tiểu cầu có điều kiện tiếp cận với chất nền ngoài tế bào (ECM) ở vách mạch