- Trang chủ
- Sách y học
- Bài giảng giải phẫu bệnh
- Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và chuyển sản
Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và chuyển sản
Tăng sản dạng nang: Đây là dạng phổ biến nhất. Các tuyến dãn nở, kích thước thay đổi, được lót bởi một lớp thượng mô trụ cao, rải rác có hình ảnh phân bào. Thượng mô có thể xếp thành nhiều tầng.
Biên tập viên: Trần Tiến Phong
Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương
Một số danh pháp cũ
Tăng sản dạng nang: Đây là dạng phổ biến nhất. Các tuyến dãn nở, kích thước thay đổi, được lót bởi một lớp thượng mô trụ cao, rải rác có hình ảnh phân bào. Thượng mô có thể xếp thành nhiều tầng.
Tăng sản dạng tuyến: Tăng sản dạng tuyến có nhiều ý nghĩa khác nhau tùy theo tác giả.
Theo Gusberg, tăng sản dạng tuyến gồm tất cả dạng tăng sản ngoại trừ tăng sản dạng nang và có 3 mức độ: nhẹ, vừa và nặng. Tăng sản nặng tương đương với tăng sản không điển hình.
Hertig và Sommers lại dùng từ tăng sản dạng tuyến để chỉ các hình ảnh tuyến tạo nhú và chồi.
Vellios và Buehl dùng từ này để chỉ nội mạc tử cung không có dị dạng tế bào.
Tăng sản không điển hình: Novak và Rutledge dùng từ này để mô tả nội mạc tử cung tăng sản với gia tăng số lượng tuyến, mô đệm giữa các tuyến ít. Các tuyến có nhân lớn, đều, không có dị dạng nhân.
Campbell và Barter dựa trên hình ảnh cấu trúc phức tạp của tuyến để xếp loại tăng sản không điển hình. Trái lại Vellios xếp vào nhóm này tất cả các tuyến có dị dạng nhân, dị dạng tế bào, bất kể các tuyến nội mạc sắp xếp chen chúc nhau hay rời rạc nhau.
Carcinom tại chỗ: Hertig dùng từ này để chỉ tăng sản khu trú các tuyến nội mạc với các tế bào tuyến lớn, mất cực tính, bào tương ái toan hay ái kiềm. Các tuyến to nhỏ không đều, có khi có nhú trong lòng ống tuyến nhưng nhân lợt màu, màng nhân không đều, chất nhiễm sắc mịn.
Buehl và Vellios dùng từ này để chỉ các tuyến tăng sản mạnh, chromatin nhân đậm, chất nhiễm sắc kết cục, màng nhân không đều, hạt nhân lớn, bào tương thường ái toan. Các tuyến không chen chúc nhau, có nơi ống tuyến có dạng sàng.
Welch và Scully dùng từ này để chỉ một hình ảnh bệnh lý của ung thư tuyến nhưng không xâm nhập quá 5 hay 6 tuyến.
Phân loại
Theo phân loại của Hội các nhà bệnh học phụ khoa thế giới, tăng sản nội mạc tử cung được chia thành:
Tăng sản nội mạc, không xâm nhập.
Tăng sản đơn thuần (không có dị dạng tế bào).
Tăng sản phức tạp (tăng sản dạng tuyến, không có dị dạng tế bào).
Tăng sản không điển hình (tăng sản dạng tuyến, có dị dạng tế bào).
Tăng sản nội mạc tử cung, xâm nhập (ác tính).
Đại thể:
Tăng sản nội mạc có thể làm dày lớp nội mạc nhưng tăng sản cũng có thể khu trú, dưới dạng pôlíp nội mạc. Do đó, chẩn đoán tăng sản dựa trên hình ảnh vi thể hơn là trên lượng nội mạc được sinh thiết.
Vi thể:
Gồm các hình thái sau:
Tăng sản, không có dị dạng tế bào: Các tuyến nội mạc gia tăng số lượng so với mô đệm, các tế bào tuyến có nhân bầu dục, đều ở đáy tế bào như các tuyến nội mạc bình thường ở giai đoạn phát triển. Các tuyến dãn nở ít, mô đệm quanh tuyến còn nhiều trong tăng sản nội mạc đơn thuần.
Trong tăng sản nội mạc phức tạp, các ống tuyến ngoằn ngoèo, chen chúc nhau, với ít mô đệm quanh tuyến. Thượng mô tuyến có thể xếp tầng đến 2 hay 4 hàng, có thể có nhiều hình ảnh phân bào. Các tế bào tuyến không dị dạng.
Tăng sản, có dị dạng tế bào (tăng sản nội mạc không điển hình): Tăng sản không điển hình nội mạc tử cung gồm gia tăng số lượng các tuyến nội mạc và có kèm theo dị dạng tế bào.
Tế bào to, mất cực tính và tỷ lệ nhân trên bào tương tăng. Nhân to, nhỏ không đều, chất nhiễm sắc kết cục, có hạt nhân lớn và màng nhân không đều, và thường tròn thay vì bầu dục. Mô đệm quanh tuyến có thể nhiều hay ít, các tuyến dạng ống hay phức tạp. Thượng mô tuyến có thể xếp tầng và có nhiều phân bào.
Chuyển sản: thường gặp trong tăng sản nội mạc tử cung, là sự thay thế thượng mô nội mạc tử cung bằng một loại mô khác thường không có trong tử cung, có thể gặp trong nhiều trường hợp bệnh lý như pôlíp, viêm nội mạc tử cung, chấn thương, thiếu sinh tố A, tăng sản nội mạc và ung thư nội mạc tử cung.
Chuyển sản gai: Hiếm gặp trong nội mạc bình thường, gặp trong 5% tăng sản nội mạc không kèm dị dạng tế bào và trong 25% tăng sản nội mạc không điển hình (có kèm dị dạng tế bào). Các tế bào gai chuyển sản thường đều nhau, tạo thành những ổ tế bào gai khu trú trong lòng tuyến.
Chuyển sản tế bào có lông chuyển (dạng vòi trứng): thường gặp ở các dạng tăng sản nội mạc nhẹ, các tế bào có lông chuyển tương tự như tế bào thượng mô vòi trứng, nằm xen kẽ với các tế bào không có lông chuyển. Dạng này cũng được gặp ở nội mạc tử cung ở người già và ở pôlíp nội mạc.
Chuyển sản nhầy: có tế bào tương tự tế bào cổ trong tử cung, hiếm gặp hơn cả. Các tế bào nhầy thường khu trú một nơi, dạng trụ cao, bào tương sáng, nhân nằm ở đáy tế bào.
Các dạng khác: Chuyển sản tế bào ưa eosin, chuyển sản tế bào sáng, chuyển sản dạng nhú v.v..
Tăng sản nội mạc và carcinom nội mạc tử cung
2% tăng sản nội mạc không có dị dạng tế bào tiến triển thành carcinom, trong khi 23% tăng sản không điển hình (với dị dạng tế bào) tiến triển thành carcinom.
Ở phụ nữ dưới 40 tuổi, với tăng sản nội mạc đơn thuần hay phức tạp, điều trị chỉ cần theo dõi và sinh thiết nội mạc định kỳ là đủ. Nếu có tăng sản nội mạc không điển hình cần phải làm sinh thiết nội mạc từng phần (cổ tử cung và nội mạc) thực hiện tại phòng mổ, để chắc chắn sinh thiết đầy đủ. Nếu bệnh nhân còn muốn tiếp tục sinh đẻ, điều trị bằng nội tiết tố, theo dõi kỹ và sinh thiết nội mạc định kỳ.
Ở phụ nữ trên 40 tuổi có tăng sản nội mạc đơn thuần hay phức tạp do không rụng trứng, có thể theo dõi hoặc điều trị với medroxyprogesteron. 80% tăng sản nội mạc không có dị dạng tế bào tự khỏi.
Nếu bệnh nhân có tăng sản không điển hình, và trên 50 tuổi, nên cắt bỏ tử cung. Nếu bệnh nhân 40-50 tuổi, có thể điều trị với progestin và theo dõi định kỳ bằng sinh thiết nội mạc mỗi 3 tháng. Nếu tăng sản còn, nên cắt bỏ tử cung. 60% tăng sản nội mạc không điển hình tự khỏi.
Bài viết cùng chuyên mục
Giải phẫu bệnh của tuyến vú
Trong lúc có thai, thay đổi sớm nhất là tuyến vú cứng chắc thêm, nẩy nở các tĩnh mạch dưới da, kèm theo hiện tượng tăng sắc tố ở quầng vú và núm vú.
Giải phẫu bệnh ung thư dạ dày
Khoảng 90-95% các ung thư của dạ dày là carcinom. Khoảng 3% là limphôm và 2% là sarcom cơ trơn. Ngoài ra, còn có u tế bào ưa bạc (là u nội tiết của ống tiêu hoá). Bốn loại này chiếm 95-99% các ung thư dạ dày.
Nội dung nghiên cứu và nhiệm vụ giải phẫu bệnh
Tham gia vào các nghiên cứu với lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác. Kết hợp, đối chiếu kết quả để đưa ra kết luận cuối cùng.
Giải phẫu bệnh bệnh buồng trứng
Bệnh lý viêm rất hiếm gặp. U có thể sinh ra từ những mô phức tạp của buồng trứng trưởng thành hay của vết tích mô phôi của buồng trứng.
Giải phẫu bệnh u mô đệm nội mạc tử cung
Đôi khi u hoá bọc, nhưng ít hoại tử xuất huyết. U thường nằm trong lớp cơ hay dưới thanh mạc nhưng không xâm nhập.
Giải phẫu bệnh của đường mật
Bệnh sỏi túi mật hay kèm với viêm túi mật mạn. Tuy vậy chỉ có 20% bệnh nhân sỏi mật có triệu chứng lâm sàng khi sỏi to, gây vàng da tắc mật.
Giải phẫu bệnh viêm cổ tử cung
Viêm do vi khuẩn quan trọng vì có thể đi kèm với nhiễm khuẩn lên nội mạc tử cung, vòi trứng và phúc mạc chậu, hoặc lây qua nhau và thai hay bé sơ sinh.
Giải phẫu bệnh u đường mật ngoài gan
Một số các tác nhân được xem như có liên quan đến sự hình thành loại ung thư này. Quan trọng nhất là sỏi mật và viêm, có trong 75-90% các carcinom túi mật.
Giải phẫu bệnh u lành cổ tử cung
Các khe tuyến tăng sản nhiều, sâu và đều, có nơi dãn nở thành nang, mô đệm tăng sản dạng pôlíp.
Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và vòng tránh thai
Vòng có chất đồng ít gây ra viêm hơn. Bạch cầu thường chỉ tập trung trong lòng các ống tuyến, có xuất tiết ở bề mặt nội mạc tử cung còn mô đệm nội mạc bình thường.
Giải phẫu bệnh u lành phần mềm
Hình ảnh vi thể đặc hiệu là có rất nhiều thực bào với không bào lớn chứa các chất dạng mỡ, ngoài ra còn có các tế bào hình thoi tạo sợi và đôi khi có đại bào đa nhân.
Giải phẫu bệnh thiếu nước và sung huyết
Thiếu hụt nước sẽ gây tăng natrium máu làm tăng trương lực của dịch ngoài tế bào kèm thiếu nước trong tế bào. Ngược lại, thiếu hụt natrium hoặc hạ natrium sẽ cản trở việc chế tiết hormon chống lợi niệu làm nước thoát ra ngoài kèm nước nhập vào trong tế bào.
Giải phẫu bệnh Carcinom nội mạc tử cung
Carcinom nội mạc tử cung có xuất độ cao nhất trong các ung thư đường sinh dục nữ ở Mỹ, với 39.000 trường hợp mới hàng năm (1984). Xuất độ carcinom nội mạc cao ở Canada và Âu Châu, thấp ở Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ.
Giải phẫu bệnh ung thư
Các ung thư thường gặp ở nam giới là ung thư của tuyến tiền liệt, phổi, và đại tràng. Ở nữ giới, các ung thư thường gặp là cổ tử cung, vú, phổi, và đại tràng.
Giải phẫu bệnh viêm não màng não
Ở trẻ em, Haemophilus influenzae là vi khuẩn thường gặp nhất gây viêm màng não; sự phát triển của vắc xin, làm giảm tỷ lệ viêm màng não rất nhiều.
Giải phẫu bệnh bệnh của miệng và xương hàm
Một loại không thường gặp là u nguyên bào cơ có hạt ở lưỡi, có hình thái giống u cùng tên ở nơi khác, gồm những tế bào to với bào tương có hạt.
Tổn thương cơ bản của tế bào và mô
Các enzym này trong máu có thể đo lường và sử dụng trên lâm sàng để phát hiện bệnh và theo dõi điều trị, ví dụ trong nhồi máu cơ tim.
Giải phẫu bệnh u đại tràng
Bệnh có ở mọi tuổi, nhưng thường được chẩn đoán ở bệnh nhân 60 đến 70 tuổi, nhân lúc bệnh nhân được khám bằng soi đại tràng sigma
Giải phẫu bệnh phần mềm
Việc chẩn đoán các u hiếm cần rất thận trọng và được hội chẩn liên khoa giải phẫu bệnh-lâm sàng-hình ảnh học y khoa.
Giải phẫu bệnh vô sinh do tử cung
Ở tử cung, vô sinh có thể do viêm nội mạc mạn tính, u cơ trơn, dị tật bẩm sinh, và các giải dính trong lòng tử cung.
Giải phẫu bệnh tuyến tiền liệt
Tổn thương viêm cấp có thể chỉ là các ổ áp xe nhỏ, nhiều chỗ, có thể là vùng hoại tử do khu trú, hoặc là tình trạng hoá mủ, sung huyết
Giải phẫu bệnh viêm xương
Bệnh viêm mủ xương-tủy có thể chia làm 3 giai đoạn diễn tiến liên tục và chuyển đổi từ từ không có ranh giới rõ rệt: cấp, bán cấp và mạn tính.
Giải phẫu bệnh bệnh thực quản
Thực quản có lớp niêm mạc là thượng mô lát tầng không sừng hoá, đoạn gần tâm vị có tuyến giống tuyến tâm vị. Lớp cơ thực quản có 2 loại: cơ vân ở 1/3 trên và cơ trơn 2/3 dưới.
Giải phẫu bệnh Carcinom vú
Phụ nữ có tiền căn ung thư vú, ung thư buồng trứng hoặc ung thư nội mạc tử cung (ở phụ nữ có tiền căn ung thư cổ tử cung thì xuất độ ung thư vú ít hơn).
Sarcom cơ trơn tử cung
Hầu hết sarcom cơ trơn nằm trong lớp cơ, dưới dạng một khối đơn độc, đường kính trung bình là 9cm, bờ không rõ rệt, mềm hay chắc.