Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và chuyển sản

2012-11-26 08:19 PM

Tăng sản dạng nang: Đây là dạng phổ biến nhất. Các tuyến dãn nở, kích thước thay đổi, được lót bởi một lớp thượng mô trụ cao, rải rác có hình ảnh phân bào. Thượng mô có thể xếp thành nhiều tầng.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Một số danh pháp cũ

Tăng sản dạng nang: Đây là dạng phổ biến nhất. Các tuyến dãn nở, kích thước thay đổi, được lót bởi một lớp thượng mô trụ cao, rải rác có hình ảnh phân bào. Thượng mô có thể xếp thành nhiều tầng.

Tăng sản dạng tuyến: Tăng sản dạng tuyến có nhiều ý nghĩa khác nhau tùy theo tác giả.

Theo Gusberg, tăng sản dạng tuyến gồm tất cả dạng tăng sản ngoại trừ tăng sản dạng nang và có 3 mức độ: nhẹ, vừa và nặng. Tăng sản nặng tương đương với tăng sản không điển hình.

Hertig và Sommers lại dùng từ tăng sản dạng tuyến để chỉ các hình ảnh tuyến tạo nhú và chồi.

Vellios và Buehl dùng từ này để chỉ nội mạc tử cung không có dị dạng tế bào.

Tăng sản không điển hình: Novak và Rutledge dùng từ này để mô tả nội mạc tử cung tăng sản với gia tăng số lượng tuyến, mô đệm giữa các tuyến ít. Các tuyến có nhân lớn, đều, không có dị dạng nhân.

Campbell và Barter dựa trên hình ảnh cấu trúc phức tạp của tuyến để xếp loại tăng sản không điển hình. Trái lại Vellios xếp vào nhóm này tất cả các tuyến có dị dạng nhân, dị dạng tế bào, bất kể các tuyến nội mạc sắp xếp chen chúc nhau hay rời rạc nhau.

Carcinom tại chỗ: Hertig dùng từ này để chỉ tăng sản khu trú các tuyến nội mạc với các tế bào tuyến lớn, mất cực tính, bào tương ái toan hay ái kiềm. Các tuyến to nhỏ không đều, có khi có nhú trong lòng ống tuyến nhưng nhân lợt màu, màng nhân không đều, chất nhiễm sắc mịn.

Buehl và Vellios dùng từ này để chỉ các tuyến tăng sản mạnh, chromatin nhân đậm, chất nhiễm sắc kết cục, màng nhân không đều, hạt nhân lớn, bào tương thường ái toan. Các tuyến không chen chúc nhau, có nơi ống tuyến có dạng sàng.

Welch và Scully dùng từ này để chỉ một hình ảnh bệnh lý của ung thư tuyến nhưng không xâm nhập quá 5 hay 6 tuyến.

Phân loại

Theo phân loại của Hội các nhà bệnh học phụ khoa thế giới, tăng sản nội mạc tử cung được chia thành:

Tăng sản nội mạc, không xâm nhập.

Tăng sản đơn thuần (không có dị dạng tế bào).

Tăng sản phức tạp (tăng sản dạng tuyến, không có dị dạng tế bào).

Tăng sản không điển hình (tăng sản dạng tuyến, có dị dạng tế bào).

Tăng sản nội mạc tử cung, xâm nhập (ác tính).

Đại thể:

Tăng sản nội mạc có thể làm dày lớp nội mạc nhưng tăng sản cũng có thể khu trú, dưới dạng pôlíp nội mạc. Do đó, chẩn đoán tăng sản dựa trên hình ảnh vi thể hơn là trên lượng nội mạc được sinh thiết.

Vi thể:

Gồm các hình thái sau:

Tăng sản, không có dị dạng tế bào: Các tuyến nội mạc gia tăng số lượng so với mô đệm, các tế bào tuyến có nhân bầu dục, đều ở đáy tế bào như các tuyến nội mạc bình thường ở giai đoạn phát triển. Các tuyến dãn nở ít, mô đệm quanh tuyến còn nhiều trong tăng sản nội mạc đơn thuần.

Trong tăng sản nội mạc phức tạp, các ống tuyến ngoằn ngoèo, chen chúc nhau, với ít mô đệm quanh tuyến. Thượng mô tuyến có thể xếp tầng đến 2 hay 4 hàng, có thể có nhiều hình ảnh phân bào. Các tế bào tuyến không dị dạng.

Tăng sản, có dị dạng tế bào (tăng sản nội mạc không điển hình): Tăng sản không điển hình nội mạc tử cung gồm gia tăng số lượng các tuyến nội mạc và có kèm theo dị dạng tế bào.

Tế bào to, mất cực tính và tỷ lệ nhân trên bào tương tăng. Nhân to, nhỏ không đều, chất nhiễm sắc kết cục, có hạt nhân lớn và màng nhân không đều, và thường tròn thay vì bầu dục. Mô đệm quanh tuyến có thể nhiều hay ít, các tuyến dạng ống hay phức tạp. Thượng mô tuyến có thể xếp tầng và có nhiều phân bào.

Chuyển sản: thường gặp trong tăng sản nội mạc tử cung, là sự thay thế thượng mô nội mạc tử cung bằng một loại mô khác thường không có trong tử cung, có thể gặp trong nhiều trường hợp bệnh lý như pôlíp, viêm nội mạc tử cung, chấn thương, thiếu sinh tố A, tăng sản nội mạc và ung thư nội mạc tử cung.

Chuyển sản gai: Hiếm gặp trong nội mạc bình thường, gặp trong 5% tăng sản nội mạc không kèm dị dạng tế bào và trong 25% tăng sản nội mạc không điển hình (có kèm dị dạng tế bào). Các tế bào gai chuyển sản thường đều nhau, tạo thành những ổ tế bào gai khu trú trong lòng tuyến.

Chuyển sản tế bào có lông chuyển (dạng vòi trứng): thường gặp ở các dạng tăng sản nội mạc nhẹ, các tế bào có lông chuyển tương tự như tế bào thượng mô vòi trứng, nằm xen kẽ với các tế bào không có lông chuyển. Dạng này cũng được gặp ở nội mạc tử cung ở người già và ở pôlíp nội mạc.

Chuyển sản nhầy: có tế bào tương tự tế bào cổ trong tử cung, hiếm gặp hơn cả. Các tế bào nhầy thường khu trú một nơi, dạng trụ cao, bào tương sáng, nhân nằm ở đáy tế bào.

Các dạng khác: Chuyển sản tế bào ưa eosin, chuyển sản tế bào sáng, chuyển sản dạng nhú v.v..

Tăng sản nội mạc và carcinom nội mạc tử cung

2% tăng sản nội mạc không có dị dạng tế bào tiến triển thành carcinom, trong khi 23% tăng sản không điển hình (với dị dạng tế bào) tiến triển thành carcinom.

Ở phụ nữ dưới 40 tuổi, với tăng sản nội mạc đơn thuần hay phức tạp, điều trị chỉ cần theo dõi và sinh thiết nội mạc định kỳ là đủ. Nếu có tăng sản nội mạc không điển hình cần phải làm sinh thiết nội mạc từng phần (cổ tử cung và nội mạc) thực hiện tại phòng mổ, để chắc chắn sinh thiết đầy đủ. Nếu bệnh nhân còn muốn tiếp tục sinh đẻ, điều trị bằng nội tiết tố, theo dõi kỹ và sinh thiết nội mạc định kỳ.

Ở phụ nữ trên 40 tuổi có tăng sản nội mạc đơn thuần hay phức tạp do không rụng trứng, có thể theo dõi hoặc điều trị với medroxyprogesteron. 80% tăng sản nội mạc không có dị dạng tế bào tự khỏi.

Nếu bệnh nhân có tăng sản không điển hình, và trên 50 tuổi, nên cắt bỏ tử cung. Nếu bệnh nhân 40-50 tuổi, có thể điều trị với progestin và theo dõi định kỳ bằng sinh thiết nội mạc mỗi 3 tháng. Nếu tăng sản còn, nên cắt bỏ tử cung. 60% tăng sản nội mạc không điển hình tự khỏi.

Bài viết cùng chuyên mục

Giải phẫu bệnh ung thư di căn đến não

Ung thư di căn não chiếm khoảng một phần tư đến một nửa khối u nội sọ, ở những bệnh nhân nhập viện. Các vị trí hay cho di căn nhất là phổi, vú, da (melanôm), thận, và đường tiêu hóa, chiếm khoảng 80% của tất cả các di căn.

Giải phẫu bệnh nội mạc tử cung và vòng tránh thai

Vòng có chất đồng ít gây ra viêm hơn. Bạch cầu thường chỉ tập trung trong lòng các ống tuyến, có xuất tiết ở bề mặt nội mạc tử cung còn mô đệm nội mạc bình thường.

Giải phẫu bệnh tổn thương hoại tử máu

Khởi đầu, trong một thời gian ngắn, mô bị hoàn toàn thiếu máu, màu nhạt và khô. Rồi đột ngột sung huyết mạnh và tràn ngập máu kèm hoại tử.

Giải phẫu bệnh u lành tuyến vú

Các đám tuyến tròn hoặc bầu dục, được lót bởi một hay nhiều lớp tế bào hình trụ hoặc đa diện. Màng đáy còn nguyên và rõ

Giải phẫu bệnh tuyến giáp

U giả, được hình thành do sự tồn tại của mô ống giáp-lưỡi, tiến triển rất chậm, 1/3 trường hợp có từ lúc mới sinh, 2/3 trường hợp chỉ xuất hiện khi bệnh nhân lớn.

Giải phẫu bệnh viêm tử cung

Ổ lao nguyên phát ở phổi hay ở ống tiêu hoá. Bệnh thường gặp ở tuổi sinh đẻ và thường kèm vô sinh.

Giải phẫu bệnh phù

Phù là sự ứ đọng bất thường các dịch đó trong ở mô đệm kẽ, còn ứ đọng dịch ở trong tế bào là hiện tượng thũng đồng thẩm thấu. Hình thái đại thể và vi thể của phù thường khác biệt tùy thuộc vị trí và cấu trúc của tạng bị thương tổn.

Giải phẫu bệnh u lành gan và đường mật

Dạng tổn thương một cục đơn độc cũng có tên là tăng sản cục khu trú, có lẽ là do khiếm khuyết phát triển dạng hamartom, nữ giới mắc bệnh nhiều hơn nam giới.

Giải phẫu bệnh u lành cổ tử cung

Các khe tuyến tăng sản nhiều, sâu và đều, có nơi dãn nở thành nang, mô đệm tăng sản dạng pôlíp.

Giải phẫu bệnh tổn thương lấp mạch

Một vật cản lớn trong dòng huyết lưu có thể lấp toàn bộ lòng mạch và gây hiện tượng lấp kín, nhưng một vật cản nhỏ sẽ chỉ làm giảm thiểu lòng mạch và gây hiện tượng lấp hẹp.

Giải phẫu bệnh ruột non

Lớp thượng mô lót bởi các hốc khác với lớp thượng mô của nhung mao. Có 4 loại tế bào thượng mô của hốc: tế bào Paneth, tế bào không biệt hoá, tế bào đài và tế bào nội tiết.

Đại cương giải phẫu bệnh bệnh xương

Xương xốp hay xương bè hoặc xương tủy giúp cho chức năng chuyển hóa chất khoáng. Xương xốp ở đầu xương còn có nhiệm vụ truyền lực đến vỏ thân xương.

Giải phẫu bệnh u và giả u ruột

Thay vì gây viêm ruột thừa thì lại làm cho các chất nhầy tiết ra bị ứ đọng lại trong lòng ruột tạo nên bọc nhầy.

Giải phẫu bệnh tinh hoàn

Tinh hoàn có các nang lao hoặc có phản ứng tế bào với thấm nhập bạch cầu đa nhân, tương bào, tế bào thượng mô tróc, tế bào đơn nhân, đại bào nhiều nhân và vi trùng lao.

Giải phẫu bệnh của tuyến nước bọt

Nước bọt có nhiều nước, mucin, glycoprotein giúp làm trơn thức ăn, làm dễ nuốt. Nước bọt có tính sát khuẩn và là một chất đệm tốt. Trong nước bọt cũng có enzym amylase (ptyalin) có khả năng biến đổi tinh bột thành maltose và phân giải glycogen, và nhiều loại enzym khác.

Giải phẫu bệnh hoạt động đại thực bào

Đại bào có kích thước lớn và chứa tới hàng chục nhân, được hình thành do nhiều đại thực bào kết dính với nhau hoặc do đại thực bào có nhân chia nhưng bào tương không phân chia. Có thể phân biệt 2 dạng đại bào:

Giải phẫu bệnh ung thư dạ dày

Khoảng 90-95% các ung thư của dạ dày là carcinom. Khoảng 3% là limphôm và 2% là sarcom cơ trơn. Ngoài ra, còn có u tế bào ưa bạc (là u nội tiết của ống tiêu hoá). Bốn loại này chiếm 95-99% các ung thư dạ dày.

Giải phẫu bệnh viêm phong (cùi, hủi)

Việc gây bệnh phong thực nghiệm ở súc vật cũng được chú ý. Năm 1960 Shepard đã tiêm truyền gây bệnh trên gan bàn chân chuột T 900R

Giải phẫu bệnh tổn thương giả u cổ tử cung

Tổn thương thường gặp ở phụ nữ dùng viên thuốc ngừa thai, hay ở phụ nữ có thai hay sau sanh.

Giải phẫu bệnh đại tràng

Trên thực tế lâm sàng, bệnh của đại tràng chiếm tỷ lệ khá cao trong các bệnh được phẫu trị. Ung thư đại tràng là nguyên nhân đứng hàng thứ 2 gây tử vong ở người lớn.

Giải phẫu bệnh u và tổn thương dạng u xương

Có nhiều tổn thương phối hợp trong cùng một u. Bên cạnh chủ mô u, có thể thấy mô phản ứng, mô tái tạo tu bổ sau hoại tử, xuất huyết, phẫu thuật hoặc gãy xương bệnh lý.

Giải phẫu bệnh của ruột thừa

Bệnh có thể có ở mọi tuổi nhưng xuất độ bệnh cao nhất xảy ra ở thanh niên và người trẻ. Nam giới có xuất độ bệnh cao gấp 5 lần nữ giới.

Giải phẫu bệnh u mô đệm nội mạc tử cung

Đôi khi u hoá bọc, nhưng ít hoại tử xuất huyết. U thường nằm trong lớp cơ hay dưới thanh mạc nhưng không xâm nhập.

Giải phẫu bệnh tổn thương huyết tắc

Huyết tắc là kết quả của quá trình di chuyển một vật lạ trong dòng huyết lưu, rồi ngưng chuyển để gây lấp kín lòng mạch (embolein: đẩy vào) taọ nên cục huyết tắc.

Giải phẫu bệnh bệnh buồng trứng

Bệnh lý viêm rất hiếm gặp. U có thể sinh ra từ những mô phức tạp của buồng trứng trưởng thành hay của vết tích mô phôi của buồng trứng.