Giải phẫu bệnh của đường mật

2012-11-29 05:24 PM

Bệnh sỏi túi mật hay kèm với viêm túi mật mạn. Tuy vậy chỉ có 20% bệnh nhân sỏi mật có triệu chứng lâm sàng khi sỏi to, gây vàng da tắc mật.

Biên tập viên: Trần Tiến Phong

Đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Túi mật và hệ thống ống mật được nuôi dưỡng bởi nhánh của động mạch gan, là đường liên lạc trực tiếp giữa gan với ống tiêu hoá. Túi mật hình nón, dài 7-10cm, chứa 30-50 cc mật. Từ mỗi thùy gan, mật từ các ống nhỏ đổ chung vào một ống, rồi vào ống gan chung dẫn vào túi mật. Mật từ túi theo ống mật chủ đổ vào tá tràng ở bóng Vater. Có 60-70% người lớn có ống tụy đổ chung vào ống mật chủ trước khi vào tá tràng, nên viêm túi mật cấp có liên quan đến hoại tử tụy.

Vi thể:

Túi mật có 4 lớp: (1) niêm mạc lót bởi một lớp tế bào trụ cao, tạo nhú, (2) lớp dưới niêm mạc mỏng, (3) lớp cơ trơn-sợi, co bóp túi mật, (4) lớp bao cơ và ngoài cùng là lớp phúc mạc bao bọc.

Mật do gan bài tiết gồm nước, cholesterol, muối mật, acid mật, bilirubin, lecithin, các ion vô cơ và mucoprotein do các ống mật chế tiết.

Dị tật bẩm sinh

Phần lớn các dị tật bẩm sinh của hệ ống-túi mật không ảnh hưởng sức khỏe bệnh nhân, ngoại trừ: (1) vô tạo hoặc chít hẹp hệ ống túi mật, toàn bộ hoặc từng phần khiến trẻ sơ sinh vàng da, tử vong sau vài tháng nếu không can thiệp phẫu thuật, (2) túi mật 2 đáy hoặc có 2 túi mật, và (3) vị trí bất thường: trong gan, hoặc có cuống treo lơ lửng trong mạc nối.

Sỏi mật

Gồm 3 loại sỏi:

(1) Sỏi cholesterol, hình bầu dục hoặc hình cầu, kích thước có khi 5-6 cm. Mặt cắt màu nâu vàng, các tinh thể xếp dạng hàng rào, phản chiếu ánh sáng.

(2) Sỏi bilirubin (thường gặp ở châu Á) do nhiễm E. coli hoặc ký sinh trùng, biến đổi sắc tố mật thành chất không tan, tạo sỏi. Bệnh thiếu máu tán huyết gây tăng lượng bilirubin vượt mức bão hòa trong mật cũng tạo sỏi. Sỏi bilirubin thường có nhiều cục đều nhau màu đen tuyền.

(3) Sỏi canxi, ít gặp nhất. Sỏi có màu xám nhạt, trơn láng.

Bệnh sỏi túi mật hay kèm với viêm túi mật mạn. Tuy vậy chỉ có 20% bệnh nhân sỏi mật có triệu chứng lâm sàng khi sỏi to, gây vàng da tắc mật.

Trường hợp hãn hữu, sỏi mật biến chứng lỗ dò ống mật- ruột, sỏi lạc sang ruột đến tận van hồi manh tràng, gây tắc ruột. Trên phim X quang bụng không thuốc cản quang chỉ thấy được sỏi canxi.

Viêm túi mật

Tiêu chuẩn chẩn đoán viêm túi mật thay đổi tùy từng tác giả. Có tác giả cho rằng, nếu có sỏi mật đương nhiên có viêm túi mật, tác giả khác chẩn đoán dựa trên hiện tượng tăng sản sợi làm dày thành túi. Tuy nhiên trên tử thiết, có phân nửa số người trưởng thành trên 40 tuổi bị viêm túi mật, nhưng chỉ một số ít có biểu hiện lâm sàng.

Ba hiện tượng bệnh lý chính là:

(1) Biến đổi sinh hoá trong thành phần mật, làm cô đặc mật,

(2) Tăng áp lực ở thành túi, chèn ép mạch máu, tắc mạch,

(3) Nhiễm khuẩn, vi khuẩn thường gặp là tụ cầu khuẩn, trực khuẩn gram âm, các cầu khuẩn ruột. Vi khuẩn đến túi mật bằng đường máu, limphô, trực tiếp ngược dòng đường mật. Cũng có khi tác nhân gây viêm là ký sinh trùng. Ở Việt Nam, viêm túi mật do giun đũa rất thường xảy ra. Giun đũa từ ruột non đi ngược lên, chui vào ống mật qua lỗ cơ vòng Oddi và có thể vào túi mật gây viêm. Xác giun tồn tại lâu ngày có thể là nguồn tạo sỏi mật.

Vài trường hợp viêm túi mật cấp có sự tham gia của các enzym tụy như lipase, amylase, protease, do dịch tụy trào ngược lên đường mật.

Viêm túi mật cấp làm túi mật phình to, căng, màu đỏ thẫm, lớp thanh mạc phủ tơ huyết hoặc có mủ. Vách túi phù nề, dày, lòng túi chứa đầy dịch mật trộn lẫn tơ huyết và mủ, trong 80% trường hợp có kèm sỏi mật. Nếu viêm nặng có thể gây biến chứng thủng, gây viêm mật phúc mạc.

Vi thể:

Túi mật phù nề, sung huyết, xuất huyết, thấm nhập bạch cầu đa nhân. Viêm mủ có các ổ áp xe nhỏ. Viêm hoại tử có tắc mạch, hoại tử túi mật.

Viêm túi mật cấp nếu không có biến chứng có thể chuyển sang thể bán cấp, với sự thay thế các bạch cầu đa nhân bằng các bạch cầu ái toan. Khi có lắng đọng canxi ở thành túi, túi mật trở nên cứng như sứ.

Viêm túi mật mạn làm túi mật teo, lớp thanh mạc căng láng và sậm màu do bị xơ hoá. Thành túi dày màu trắng, lòng túi chứa dịch màu xanh sậm, nhầy. Dưới kính hiển vi thấy đủ loại tế bào viêm mạn như tương bào, limphô bào, các đại thực bào và bạch cầu một nhân.

Bệnh tăng cholesterol mật

Bệnh do rối loạn chuyển hoá cholesterol trong dịch mật, không liên quan đến cholesterol trong máu. Bệnh gây ứ đọng cholesterol ở lớp dưới niêm mạc của túi mật. Có 2 giả thuyết giải thích hiện tượng này:

(1) Các tế bào ở lớp niêm mạc tăng sự tái hấp thụ cholesterol trong dịch mật.

(2) Các tế bào này giảm chế tiết cholesterol vào dịch mật.

Bệnh làm lớp niêm mạc túi mật có những nụ màu vàng nhạt như trái dâu. Dưới kính hiển vi, thấy lớp niêm mạc có những nếp phồng to, lớp dưới niêm mạc có nhiều mô bào với bào tương có nhiều hạt lipid. Khi tế bào này chết vỡ ra, phóng thích các hạt có tinh thể cholesterol, tạo phản ứng viêm có nhiều đại bào và nguyên bào sợi.

Bọc nhầy túi mật

Túi mật chứa đầy chất nhầy trong, căng phồng, bóng láng. Thành túi dãn mỏng, lớp niêm mạc thiểu dưỡng teo mỏng phẳng ra. Bệnh thường không gây khó chịu gì cho bệnh nhân, nhưng có khi gây buồn nôn, nôn kéo dài.

Bài viết cùng chuyên mục

Giải phẫu bệnh bệnh hô hấp

Carcinôm tế bào nhỏ vào thời điểm được chẩn đoán, thường đã di căn. Ngoài ra, còn có một số loại ung thư khác hiếm gặp như u trung mạc.

Giải phẫu bệnh u mầm bào buồng trứng

U mầm bào là nhóm u buồng trứng lớn thứ hai sau u thượng mô thông thường, với xuất độ là 20% u buồng trứng. Tỷ lệ này là tỷ lệ bên Âu Châu và Châu Mỹ, còn bên Á Châu và Phi Châu, nơi xuất độ u thượng mô thấp hơn.

Giải phẫu bệnh viêm não màng não

Ở trẻ em, Haemophilus influenzae là vi khuẩn thường gặp nhất gây viêm màng não; sự phát triển của vắc xin, làm giảm tỷ lệ viêm màng não rất nhiều.

Phôi thai mô học và sinh lý học tử cung

Sau rụng trứng, các tuyến có hoạt động chế tiết ở đầu giai đoạn này, các tế bào tuyến có nhiều không bào chứa glycogen, và đội nhân hơi cao.

Giải phẫu bệnh Carcinom vú

Phụ nữ có tiền căn ung thư vú, ung thư buồng trứng hoặc ung thư nội mạc tử cung (ở phụ nữ có tiền căn ung thư cổ tử cung thì xuất độ ung thư vú ít hơn).

Giải phẫu bệnh viêm dạ dày

Trong thể bệnh nhẹ, thượng mô bề mặt còn nguyên và lớp dưới có thấm nhập rải rác bạch cầu đa nhân.

Giải phẫu bệnh tụy tạng

Tụy của người trưởng thành dài khoảng 15 cm, nặng 60-100g, gồm đầu tụy, thân tụy và đuôi tụy. Ở đầu tụy có ống Wirsung dẫn dịch ngoại tiết vào tá tràng.

Giải phẫu bệnh tuyến tiền liệt

Tổn thương viêm cấp có thể chỉ là các ổ áp xe nhỏ, nhiều chỗ, có thể là vùng hoại tử do khu trú, hoặc là tình trạng hoá mủ, sung huyết

Giải phẫu bệnh u cơ trơn tử cung

Thường tử cung có nhiều u, hình cầu và chắc, lồi ra khỏi mô cơ lân cận. Mặt cắt trắng hoặc vàng, có dạng cuộn. U có thể có nhiều vị trí: dưới nội mạc, trong cơ và dưới thanh mạc.

Giải phẫu bệnh tổn thương hoại tử máu

Khởi đầu, trong một thời gian ngắn, mô bị hoàn toàn thiếu máu, màu nhạt và khô. Rồi đột ngột sung huyết mạnh và tràn ngập máu kèm hoại tử.

Giải phẫu bệnh u lành tuyến vú

Các đám tuyến tròn hoặc bầu dục, được lót bởi một hay nhiều lớp tế bào hình trụ hoặc đa diện. Màng đáy còn nguyên và rõ

Sarcom cơ trơn tử cung

Hầu hết sarcom cơ trơn nằm trong lớp cơ, dưới dạng một khối đơn độc, đường kính trung bình là 9cm, bờ không rõ rệt, mềm hay chắc.

Giải phẫu bệnh u hỗn hợp trung bì tử cung

U Muller hỗn hợp là loại sarcom tử cung thường gặp nhất dù chỉ chiếm 1,5% u ác tử cung và là u có độ ác tính cao

Giải phẫu bệnh tổn thương chảy máu

Chảy máu là tình trạng máu ra khỏi hệ tuần hoàn, có thể (a): khu trú tại một điểm trong cơ thể (b) lan tỏa (thường là biểu hiện của một bệnh hệ thống).

Giải phẫu bệnh ung thư di căn đến não

Ung thư di căn não chiếm khoảng một phần tư đến một nửa khối u nội sọ, ở những bệnh nhân nhập viện. Các vị trí hay cho di căn nhất là phổi, vú, da (melanôm), thận, và đường tiêu hóa, chiếm khoảng 80% của tất cả các di căn.

Giải phẫu bệnh hạch lympho

Bệnh Hodgkin được mô tả lần đầu tiên do Thomas Hodgkin, bởi sự quan sát đại thể hạch lymphô; Thuật ngữ bệnh Hodgkin được Wilks áp dụng (vào năm 1865).

Lợi hại và phân loại viêm theo giải phẫu bệnh

Do giãn mạch tạm thời (động và tĩnh mạch), có thể biểu hiện dưới dạng hồng ban do nắng, ngoại ban (exanthema), tổn thương do nhiễm khuẩn.

Giải phẫu bệnh ruột non

Lớp thượng mô lót bởi các hốc khác với lớp thượng mô của nhung mao. Có 4 loại tế bào thượng mô của hốc: tế bào Paneth, tế bào không biệt hoá, tế bào đài và tế bào nội tiết.

Giải phẫu bệnh viêm đại tràng

Như đã đề cập trong phần bệnh Crohn của bài trước, bệnh viêm loét đại tràng vô căn có một số đặc điểm chung với bệnh Crohn

Giải phẫu bệnh ung thư phần mềm

U có nhiều thùy, đặc, 5-10cm hoặc lớn hơn. U thường lan dọc theo màng cân hoặc thớ cơ, vì vậy cho tỷ lệ tái phát cao. Mặt cắt màu xám hoặc trắng và thay đổi tùy theo dạng vi thể.

Giải phẫu bệnh hội chứng Asherman

Mô nạo có ít mô nội mạc. Các vùng dính trong buồng tử cung là tổ chức sợi hay cơ trơn, với phản ứng viêm nhẹ.

Giải phẫu bệnh bệnh tim và mạch máu

Bình thường, vào tuần thứ 4 của bào thai, 2 ống phôi tim mạch hòa nhập vào thành một với 4 buồng: xoang tĩnh mạch, tâm nhĩ, tâm thất và bầu thất.

Giải phẫu bệnh vô sinh do tử cung

Ở tử cung, vô sinh có thể do viêm nội mạc mạn tính, u cơ trơn, dị tật bẩm sinh, và các giải dính trong lòng tử cung.

Giải phẫu bệnh u thượng mô thông thường buồng trứng

Thượng mô nẩy chồi là hậu quả sự tăng sản thượng mô nhiều so với tăng sản mô đệm, thượng mô xếp dạng nhú, dạng chồi.

Giải phẫu bệnh u đường mật ngoài gan

Một số các tác nhân được xem như có liên quan đến sự hình thành loại ung thư này. Quan trọng nhất là sỏi mật và viêm, có trong 75-90% các carcinom túi mật.